24/05/2018, 21:59

Vài đức tính cần thiết cho công tác khoa học

"Có thể nhà bác học cũng chỉ là một đứa trẻ, đã duy trì thành công - người ta không rõ bằng cách nào - tính tò mò và khả năng ngạc nhiên lúc tuổi thơ, đồng thời rèn luyện tính kỷ luật, lòng kiên nhẫn, nghị lực của người lớn tuổi, cần thiết cho mọi thành ...

"Có thể nhà bác học cũng chỉ là một đứa trẻ, đã duy trì thành công - người ta không rõ bằng cách nào - tính tò mò và khả năng ngạc nhiên lúc tuổi thơ, đồng thời rèn luyện tính kỷ luật, lòng kiên nhẫn, nghị lực của người lớn tuổi, cần thiết cho mọi thành công”.

Muốn đi vào khoa học, ta phải nhận thức được tính chất của lao động nghiên cứu khoa học.

Cũng như nhà săn bắn đi tìm thú, nhà khoa học cũng đi “săn” sự kiện. Người đi săn phải có đầu óc quan sát để phát hiện dấu chân thú, phải kiên trì rình thú ra ăn, phải có trí nhớ để đỡ lạc đường trong rừng rậm, phải nhanh nhẹn để nổ súng kịp thời. Muốn “săn” được nhiếu sự kiện, nhà khoa học cũng phải có những đức tính như thế.

Nhưng người săn thú, sau khi bắn được thú, coi như đã thành công, còn người khoa học với một mớ sự kiện săn được, lại bước sang một giai đoạn khác. Anh ta phải suy nghĩ trên mớ sự kiện đó, tìm mối liên quan giữa chúng để phát triển những quy luật trong tự nhiên. Công việc này đòi hỏi một trí tưởng tượng phong phú.

Người nào muốn đi vào con đường khoa học phải có một số đức tính sau đây:

"Muốn trở thành bác học, phải biết nhìn mọi cái xảy ra trước mắt. Đây là điều rất khó. Muốn học nhìn sự vật gì, phải tập luyện lâu dài”.

Khoa học là một bộ phận sản xuất của hoạt động con người, lý thú hơn cả và đồng thời cũng khó khăn hơn cả.

Phát minh khoa học thành hình do trực giác gần như trong tiềm thức, nhưng phải được chuẩn bị bằng một quá trình lâu dài về quan sát và thí nghiệm.

Hoạt động đầu tiên của người nghiên cứu là quan sát hiện tượng.

Muốn quan sát đúng đắn, người nghiên cứu phải nhạy cảm, tức có giác quan nhạy bén để nhận biết ngay hiện tượng vì nhiều hiện tượng tự nhiên rất tế nhị hoặc tiếp diễn quá nhanh.

Vì thế, điều kiện đầu tiên của nhà khoa học thực nghiệm là mắt phải tinh, mũi tai phải thính. Người điếc rõ ràng không thể nghiên cứu được âm nhạc.

Tính nhạy cảm cũng chưa đủ, còn phải có óc quan sát. Có óc quan sát tức là biết tập trung chú ý và có khả năng nhận thức rõ ràng các sự kiện và ý nghĩa của chúng, trong này có những sự kiện dường như vô nghĩa đối với con người bình thường.

Người ta kể rằng Galilê lúc nhỏ đi lễ nhà thờ, chú ý chạm phải chùm đèn làm đèn đu đưa. Anh lưu ý thấy thời gian dao động không thay đổi, căn cứ vào mạch đập ở tay của anh (lúc này chưa có phát minh ra đồng hồ).

Về nhà, anh tiếp tục làm thí nghiệm, lấy chỉ buộc vào mọi thứ, chìa khoá, lọ mực, hòn đá,…và đo thời gian dao động, anh rút được mấy kết luận:

1. Các vật nặng nhẹ khác nhau sẽ lắc cùng nhịp nếu các chỉ dài bằng nhau.

2. Số lần dao động trong thời gian nhất định sẽ tuỳ thuộc vào độ dài của chỉ.

3. Biên độ của dao động giảm dần nhưng thời gian của dao động hình như không đổi.

Từ bao đời, đã nhiều người đi lễ nhà thờ Pisơ ở nước Ý cũng chỉ coi hiện tượng đu đưa của chùm đèn là bình thường. Phải đợi tới Galilê với óc quan sát đặc biệt, mới nhìn thấy “cái đặc biệt” trong hiện tượng bình thường đó.

Ai cũng có thể nhìn, nghe, sờ mó, nhưng quả ít người có óc quan sát. Những người này nhìn loáng thoáng theo kiểu cưỡi ngựa xem hoa hoặc trái lại chỉ nhìn hiện tượng vơi định kiến có sẵn.

Với cách nhìn như vậy, họ dễ dàng bỏ qua nhiều sự kiện tưởng như “bình thường”, tựa như bao người đi lễ nhà thờ trước thời Galilê, hoặc đi tới “ngộ nhận” hiện tượng, dễ đi tới biện luận sai lầm như trong thí dụ sau.

Trong lịch sử sinh học, đã có một thời khởi xướng một học thuyết về phát sinh tế bào vẫn có thể thành hình từ chất sống không phải tế bào.

Tác giả này đã dựa trên luận điểm của Enghen “chất sống bắt nguồn từ chất không không sống”, để suy diễn: nếu chất sống bắt nguồn từ chất không sống”, để suy diễn: Nếu chất sống có thể phát sinh từ chất không sống, tế bào cũng có thể phát sinh từ chất không sống, tế bào cũng có thể phát sinh từ chất không sống, tế bào cũng có thể phát sinh từ chất sống phi tế bào.

Nhưng tác giả không nghĩ tới sự kiện là chất sống đã nảy sinh từ chất không sống trong những điều kiện rất đặc biệt của trái đất trước kia hiện nay không còn. Sự hình thành tế bào từ chất sống không phải tế bào chắc cũng không thoát ly được điều kiện lịch sử đó.

Để minh chứng cho giả thiết, tác giả đã căn cứ vào quan sát sự phát triển của trứng gà, thấy trong lòng đỏ trứng đang phân hoá thành hình những vật thể đỏ trứng đang phân hoá có thành hình những vật thể hình cầu, có cái có nhân giống như tế bào. Và cũng dựa vào thí nghiệm nghiền thuỷ tức để phá huỷ cấu trúc tế bào của nó, trong nước thuỷ tức sẽ thấy thành hình vật thể giống tề bào.

Sau này, khoa học có kiểm tra lại thì thấy “các tế bào” đó chỉ là những hình giả tạo do thuốc nhuộm tiêu bản gây nên. Toàn bộ học thuyết đã phá sản.

Có óc quan sát còn là biết tập trung chú ý ta mới có thể phát hiện được nhiều chi tiết thú vị bất ngờ.

Trong một bài thực tập về mổ ếch, một sinh viên đã phát hiện ra nhiều đôi đốm trắng ở hai bên cột sống con vật. Đặc điểm này không thấy ở hình vẽ mẫu và cũng không thấy thầy giáo nói tới. Sau khi tìm hiểu, anh ta biết thêm là đây là những khối dự trữ can xi của ếch.

Trong một cuộc du lãm sinh học, có sinh viên quan sát cách thở bằng thầm miệng của ếch. Trong sách giáo khao, chỉ nêu động tác thở là hạ thềm miệng để hút ôxy và nâng thềm miệng để tống ôxy vào phổi. Anh quan sát kỹ, thì thấy động tác nâng hạ thềm miệng tiếp diễn rất nhanh tới chục lần để tích ôxy trong miệng, tới khi có khối ôxy đáng kể trong đó, mới có động tác nâng mạnh thềm miệng để đẩy ôxy qua thanh quản. Anh đã phát hiện chi tiết của động tác thở của ếch không nêu trong bài giảng. Kiến thức này không có cả trong sách giáo khoa.

Tính nhạy cảm bẩm sinh, nhưng óc quan sát đòi hỏi rèn luyện. Thầy giáo khoa học có tác dụng quan trọng trong việc rèn luyện này. Phải gợi ý cho sinh viên tìm tòi thêm trong các buổi thực tập. Phải giúp đỡ sinh viên tập nhận thức ý nghĩa của hiện tượng thông thường trong các quan sát, thí nghiệm.

Nhà sinh lý học Paplốp đã nói với các môn đồ: Trong khi nghiên cứu, thí nghiệm, quan sát, các bạn không nên bao giờ nhìn sự kiện một cách hời hợt. Đừng biến mình thành người lưu trữ sự kiện. Hãy đi sâu vào bí mật về nguồn gốc của chúng. Hãy kiên nhẫn tìm ra quy luật chi phối chúng.

“Trí nhớ là cái đại dương, chúng ta bơi trên đó tới tương lai của mình”

Tri nhớ là khả năng giữ được tình trạng của ý thức đã qua, khi cần tới, gợi nó lên, xác định được nó trong thời gian và không gian trước kia. Ý thức đã qua gọi là ký ức, gồm những cảm giác hình ảnh, âm thanh ghi ở não trong quá khứ.

Trí nhớ là một thuộc tính bẩm sinh bảo đảm cho sự sinh tồn của loài vật. Chim thú đều nhớ đường đi kiếm ăn, đường về tổ. Trẻ em cũng nhớ đường đi chơi, đường về nhà.

Không có trí nhớ, đới sông sinh hoạt sẽ giảm mất nhiều kinh nghiệm của dĩ vãng để hướng hành động cho tương lai. Trẻ em nhỏ đã bị bỏng về lửa, sau này không dám thò tay vào ngọn nến đang cháy. Một nhà triết học có nói: Sự nhìn trước là một trí nhớ trở ngược.

Không có trí nhớ, sẽ không có đời sống trí tuệ: Nhận thức, tưởng tượng, lập luận và lẽ phải. Trí thông minh càng phong phú và linh hoạt nếu trí nhớ càng phong phú và được rèn luyện tốt.

Yêu cầu về trí nhớ đối với người nghiên cứu cao hơn người lao động khác. Nhà khoa học phải luôn luôn liên hệ các sự kiện và tìm cách nối chúng với nhau, nên buộc phải có trí nhớ nhanh để ghi được nhiếu sự kiện xảy ra trong thời gian ngắn. Mặt khác, cũng phải có trí nhớ bền vì phải thường xuyên liên hệ so sánh sự kiện mới với sự kiện cũ.

Trong cuộc du lãm, đi quan sát một khu rừng nguyên sinh ta phải nhận biết nhanh chóng các loài cây điển hình, và sau đó lại liên hệ với cuộc du lãm trước kia trong một khu rừng thứ sinh, để thấy các điểm giống nhau và điểm sai khác.

Trí nhớ nhanh phần nào có tính bẩm sinh và tuỳ thuộc tính nhạy cảm của tế bào thần kinh. Người ta kể chuyện tiến sỹ Lê Quy Đôn, hồi còn nhỏ, đã đọc bài văn bia ở bở sông trong lúc thuỷ triều lên, và có thể đọc lại không sai một chữ, khi nước đã che lấp bia.

Nhà toán học L.Oile có một trí nhớ kỳ diệu. Trong một đêm mất ngủ, ông đã tính nhẩm trong óc luỹ thừa sáu của một trăm số đầu và rất lâu về sau, ông vẫn còn nhớ kết quả tìm được.

Nhà toán học Gausơ nổi danh là “một cuốn sách im lặng không có tên sách”; ông làm tính không bao giờ nhẩm mặc dù tính có phức tạp thế nào.

Tuy nhiên vẫn có thể tăng tốc độ bằng cách tập luyện. Thông thường, ta có khả năng đọc 250 từ một phút, nhưng có thể nhở luyện tập mà tăng tốc độ lên 500 từ và hơn nữa.

Trí nhớ bền tuỳ thuộc nhiều vào quá trình rèn luyện. Tập trung chú ý khi đọc bài giúp ta ghi sâu được hình ảnh kiến thức ở vỏ não. Ôn tập thường xuyên cũng giúp củng cố hình ảnh này.

Phải coi trọng việc ghi nhật ký, một hình thức quan trọng giúp việc củng cố kiến thức.

Nhưng dè chừng là trí nhớ máy móc, trí nhớ truyền khẩu, trí nhớ sách vở lại không tốt cho trí tuệ. Một trí nhớ các ý niệm lôn xộn, các từ không rõ nghĩa, lại thành một trở ngại cho trí thông minh hơn là trợ thủ cho nó. Loại trí nhớ này sẽ làm mất cảm giác tười trẻ, mất tính độc đáo, mất tính uyển chuyển. Một văn hào có nói: Một cái đầu tốt giá trị hơn một cái đầu đầy ắp.

Không những cần có trí nhớ trật tự, minh bạch, mà người nghiên cứu cần có trí nhớ trung thực.

Một tình trạng đã qua càng dễ nhớ lại nếu nó ghép với nhiều tình trạng khác mà một số dễ gợi lại. Một chuyên gia nhớ rất kỹ tất cả điều gì liên can tới chuyên môn của anh ta, vì kiến thức mới được ghép ngay vào mạng lưới chặt chẽ của kiến thức cũ có liên quan. Một bác học nhớ dễ dàng các sự kiện xác minh cho giả thuyết tha thiết của mình, và có thiên hướng quên những sự kiện trái với quan niệm của bản thân.

Đácuyn đã tự đặt cho mình quy tắc sau đây để giữ được tính trung thực trí tuệ: Mỗi khi, tôi thấy một sự kiện, một quan sát hay một ý niệm mới mâu thuẫn với kêt quả chung đã đạt được, tôi lưu tâm ghi chép ngay và đầy đủ, vì kinh nghiệm đã cho biết là ý niệm và sự kiện loại ấy dễ xoá nhoà trong ký ức của ta hơn các sự kiện phù hợp với quan niệm của ta.

Nói tới trí nhớ, không phải và không nên cái gì cũng ghi, cái gì cũng nhớ. Người nghiên cứu phải biết chọn lọc kiến thức cần nhớ, chủ yếu các kiến thức liên can tới lĩnh vực khoa học của mình. Não người không phải là một trường ảnh vô hạn. Muốn biết nhớ phải biết quên, nhớ những điều có ích và quên những điều vô ích.

Những cái gì có thể dễ tìm trong sách thì không cần nhớ.

Khi ở Mỹ, người ta đưa Anxtanh xem một cuốn sách ghi các câu hỏi cần thiết cho một học sinh vào đời. Khi xem đến câu hỏi về tốc độ truyền âm, ông nói: Không biết! Tôi không cần nhồi nhét vào đầu óc tôi những sự kiện mà tôi có thể tìm rễ dàng trong một cuốn từ điển bách khoa.

Một nhà triết học đã nói: Một điều kiện của trí nhớ là lãng quên…Lãng quên, trừ vài trường hợp, không phải là một bệnh của trí nhớ, mà là một điều kiện của sức mạnh và sự sinh tồn của tri nhớ.

Tơi đây có câu hỏi: Trí nhớ cần thiết cho công tác nghiên cứu, tai sao người ta kể nhiều chuyện đãng trí của các nhà bác học?

Thật ra đây chỉ là biểu hiện của sự tập trung chú ý cao độ về vấn đề nghiên cứu, làm các nhà khoa học tách biệt hẳn về mặt tâm lý với hoàn cảnh bên ngoài. Sự tập trung chú ý này rất cần thiết cho người nghiên cứu, vì từ một khối kiến thức thu được, chỉ có thể tập trung suy nghĩ, phân tích, tổng hợp mới nảy sinh ý niệm mới.

Thời cổ Hi Lạp, nhà triết học Ácsimét được nhà vua mời tới để tính toán xem cái mũ miện vừa đặt làm có bằng vàng nguyên chất hay bị trộn lẫn với bạc.

Ácsimét suy nghĩ hàng tháng chưa tìm ra giải pháp. Bỗng dưng, một buổi sáng nằm trong bồn tắm, ông thấy dìm người xuống nước thì nước trào ra ngoài, ông chợt nghĩ ra là các vật có tỉ trọng khác nhau bỏ vào nước sẽ bị một lực đẩy khác nhau của nước.

Như vậy, chỉ có việc làm hai cái mũ miện khác, một bằng vàng nguyên chất, một bằng bạc nguyên chất. Rồi so sánh lực đẩy của nước đối với hai mũ này với lực đẩy cái mũ miện đầu tiên. Nếu có sai khác, rõ ràng chất liệu có pha trộn.

Nghĩ tới đó, ông thích quá, nhảy khỏi bồn tắm, chạy ra phố không kịp mặc quần áo, miệng kêu: Ơrơca, Ơrơca (tìm thấy rồi, tìm thấy rồi).

Có thể phát hiện trí nhớ bằng cách tập luyện: học những đoạn văn, thơ nổi tiếng, quan tâm tới sức khoẻ, vì sức khoẻ là cơ sở của tri nhớ. Muốn cố định ký ức, phải hoạt động cùng lúc mắt, tai, miệng, bàn tay; tự đọc và tự viết những từ đã đọc, mình muốn nhớ.

Ôn tập là rất cần thiết; ôn tập phải cách nhau bởi khoảng thời gian. Phải sắp xếp có thứ tự các kiến thức (đọc phải có ghi chép vào phiếu, sổ tay).

Mác đã luyện trí nhớ bằng cách học thuộc lòng những bài thơ bằng thứ tiếng ông không biết.

Phải dạy cho sinh viên không chỉ bằng lòng đọc bằng mắt hay nghe bằng tai, mà luyện thói quen lập lại rõ ràng trong nội tâm những từ đã nghe hay đã đọc. Phương pháp này cho phép theo dõi tốt hơn một bài học, một bài đọc hay một cuộc hội thoại.

“Nhà bác học chân chính không thấy cái gì trong thiên nhiên không có tầm quan trọng”

Nghiên cứu khoa học là đi săn sự kiện, phát hiện những sự kiện mới để đặt giả thuyết hoặc để chứng minh cho giả thuyết đã đặt.

Có tính tò mò tìm hiểu mới thu thập được nhiếu sự kiện trong quan sát và trong thực nghiệm. Tò mò tìm hiểu sẽ giúp việc thu thập nhiều kiến thức khoa học.

Nhờ tính tò mò tìm hiểu mà nhà côn trùng học Fa brơ, một thầy giáo phổ thông ở một địa phương hẻo lánh nước pháp, trong vài chuc năm đã thu thập được một lượng kiến thức khổng lồ về đới sống nhiều loài sâu bọ trong vùng và đã để lại cho khoa học hàng chục pho sách về đới sống côn trùng hiện còn giữ nguyên giá trị của chúng.

Tò mò tìm hiểu đôi khi dẫn tới phát minh quan trọng không ngờ.

Ở thế kỷ XVIII, có anh thợ chữa kính Hà Lan tên là Lêvenhúc. Một hôm, anh ta tò mò thử xem nếu xếp hai mắt kinh não, ảnh có to hơn so với một mắt kính không? To hơn thất. Anh xếp thêm kính và thấy ảnh càng to nếu càng có nhiều kính. Thế là nguyên lý kính hiển vi cho sự phát triển của nhiều nghành khoa học, thuỷ sinh học, tế bào học, vi khuẩn học…

Năm 1928, nhà vi sinh vật học Flemminh, bấy giờ đang nghiên cứu về sự đột biến của liên cầu khuẩn, nhận thấy một bản cấy khuẩn bị nhiễm bởi một vi sinh vật từ ngoài tới. Người bình thường thì coi đấy là một sự cố không lạ. Nhưng Flemminh lại tò mò quan sát kỹ bản cấy bị nhiễm. Trong tập đoàn liên cầu trùng, có một vùng trong suốt. Thì ra, thứ nấm lạ này đã tiết chất diệt một số liên cầu trùng.

Ông đổi ngay kế hoạch nghiên cứu, tìm hiểu tính chất của loài nấm kỳ lạ này: Chế tạo dung dịch chất nấm để thử nghiệm trên các vi trùng khác nhau; tiêm dung dịch vào thỏ, chuột để xem hiệu quả miễn dịch. Tất cả thí nghiệm đó chưng minh rằng chất tiết của nấm trong dung dịch rất loãng cũng có khả năng diệt trùng mạnh hơn rất nhiều chất sát trùng tối nhất lúc bấy giờ. Nhờ tò mò tìm hiểu của nhà bác học mà chất Pênixilin ra đời, mở đường cho nghành công nghiệp chất kháng sinh đang phát triển mạnh mẽ.

Tò mò tìm hiểu là không bằng long với một mặt của hiện tượng, cố gắng đi tìm các mặt khác.

Khi phát hiện thầy một cây thuốc ở một địa phương chữa khỏi bênh nào đó, một người bình thường thì bằng lòng với kiến thức thông thường này. Người có tính tò mò sẽ tìm hiểu thêm tên khoa học của loài cây, cây có ở địa phương nào, thành phần hoá học ra sao, công dụng được học đã được kiểm nghiệm chưa,…

Tò mò tìm hiểu là không bằng lòng về chỉ biết hiện tượng mà muốn đi sâu vào nguyên nhân của nó.

Hồi cuối thế kỷ XIX, nhà vật lý học Beccơren thông báo là chất uranium có thể phóng xạ; hai nhà vật lý học khác, Pie và Mari Culi, kiểm tra lại hiện tượng này trên nhiều chất quặng khác, thấy hiện tượng phóng xạ cũng khá phổ biến.

Nhưng ngày nào đó, họ thấy chất quặng Pecblende có tính phong xạ mạnh hơn dự tính. Mari kiểm tra lại dụng cụ đo lường sợ có sai sót chăng? Nhưng không. Lập tức, Pie và Mari đi tìm nguyên nhân của hiện tượng. Có thể là chất khoáng có tính phóng xạ mạnh chứa một chất gì chưa biết có độ phóng xạ cao chăng?

Sau nhiều tháng kiên trì thí nghiệm, họ đã phát hiện là trong quặng Pechblende có độ phóng xạ mạnh khác thường là nhờ hai chất phón xạ mà giới khoa học chưa biết, đây là Polonium và radium.

Tính tò mò khoa học khác hẳn tính tò mò không lành mạnh thể hiện ở chỗ đi tìm hiểu những bí ẩn về đời tư của người khác, không giúp gì cho sự tích luỹ kiến thức khoa học. Ngược lại tính đại khái, phiến diện, ngại đi sâu tìm hiểu, cũng rất xa lạ với người nghiên cứu.

Phải phát triển tính tò mò tìm hiểu từ tuổi vỡ lòng và duy trì nó suốt cả đời người, nếu muốn đi vào con đường khoa học.

Tò mò tìm hiểu là một thuộc tính bẩm sinh. Con thú luôn luôn tìm hiểu thế giới bên ngoài để lấy thức ăn, tránh những nguy hiểm cho đời sống.

Con người, từ khi thành hình, lại phát triển tính tò mò tìm hiểu vào bì ẩn của thiên nhiên. Nhờ đó, đã có sự tích luỹ ngày càng nhiều kiến thức khoa học của mỗi thế hệ làm xã hội loài người tiến lên. Trẻ em ở thế hệ hiện tại biết nhiều hơn người lớn ở các thế hệ trước.

Phải khuyến khích trẻ nhỏ đăt câu hỏi “thế nào?” và “tại sao?” vì ta có thể bằng cách đó bồi dưỡng những mần non bác học. Người ta kể lại: Nhà phát minh ra vi trùng đậu mùa Gienne có tính tò mò tìm hiểu khá đặc biệt tư lúc nhỏ. Hồi còn là học sinh, muốn thử xem sức nóng của ngọn lửa cây nến có đồng đều không, cậu bé Gienne đã thò ngón tay vào đầu ngọn lửa và vào giữa ngọn lửa để kiểm nghiệm.

Giải thưởng Nôben về hoá học Sêmiônốp, người đã hướng dẫn và đào tạo hơn 20 viện sỹ hoá học, cũng có tính tò mò tìm hiểu đáng chú ý từ lúc còn học lớp năm. Vừa học xong bài hoá học, cậu bé Sêmiônốp đã làm ngay thí nghiệm chế muối ăn bằng cách đốt Natri trong bình cầu có chứa Clo và thu được nhiều hạt kết tủa màu trắng. Có bạn hỏi: Sao cậu biết đấy là muối? Sêmiônốp trả lời: Tớ nếm thử, thấy mặn. Tinh thần khoa học quả đã sớm có ở cậu học sinh lớp năm này.

Theo một nhà giáo dục học, nhà bác học là người duy trì thành công - người ta không rõ bằng cách nào - tính tò mò và khả năng ngạc nhiên của tuổi thơ, đồng thời rèn luyện được tính kỉ luật, nghị lực kiên trì của người lớn tuổi.

Từ tuổi lên ba, trẻ nhỏ đã thể hiện tính tò mò tìm hiểu. Phải chọn lời giải đáp thích hợp với từng lứa tuổi. Trước câu hỏi “Thế nào?” và “Tại sao?” của trẻ nhỏ, ta phải nói rõ ràng chó chúng về hiện tượng và tuỳ từng tuổi, tới mức nào về nguyên nhân của hiện tượng.

“Thế nào?” và “Tai sao?” phải là câu hỏi thường trực trong đầu người nghiên cứu trước mỗi sự kiện mới. Chính nhờ đội ngũ cac nhà khoa học của bao thế hệ trước đây, đã làm quan sát, thí nghiệm để tự giải đáp cho bản thân, ta mới có lời giải đáp thoả đáng cho thắc mắc của con trẻ ngày nay.

“Ở phía xa các vị trí tiền tiêu của khoa học hiện đại, có trải một khoảng không rộng lớn, trong đó trí tưởng tượng có thể bay bổng”

Có trí tưởng tượng là từ sự kiện có sẵn, hình dung được những sự kiện sẽ gặp sau này, là tìm được mối liên hệ giữa các sự kiện cách nhau trong thời gian và trong không gian.

Trí tưởng tượng có vai trò quan trọng trong khoa học. Tuy khoa học đòi hỏi dẫn chứng, chứng minh, tức thiên về lập luận, phát minh khoa học cũng là sản phẩm của trí tưởng tượng.

Trong toán học, trí tưởng tượng đã sáng tạo các ký hiệu đại số và các hình học hoàn chỉnh. Trong khoa học thực nghiệm, trí tưởng tượng sáng tạo các giả thiết là có một định luật chưa biết; trí tưởng tượng cũng phát minh ra công cụ quan sát và các cách thí nghiệm cần thiết cho kiểm tra giả thuyết; nó còn xây dựng các học thuyết tổng quát tượng trưng sự hài hoà của vũ trụ.

Năm 1831, Đácuyn chú ý tới đảo san hô ở Thái Bình Dương mà trước đó không ai hiểu được nguyên nhân hình thành. Ông tự hỏi: Tại sao đảo lại có hình vành nón? Tại sao lại có vũng nước giữa đảo? Ông đặt giả thuyết ngay: San hô gắn vào miệng một núi lửa rồi phát triển cao dần. Sau khi kiểm tra thấy san hô chỉ mọc ở tầng nước nông, sâu nhất là 50 mét, ông lại sửa ngay giả thuyết: San hô gắn vào miệng núi lửa cũ, sau núi sụt thấp dần và san hô mới sinh cứ găn bồi thêm phân tử ôxy lại tạo thành bốn nguyên tử ôxy. Cứ như thế, sẽ thành hình vô số phân tử ôxy phốtpho đột nhiên phát sáng.

Sau đó, ông kiên trì làm thí nghiệm để kiểm tra giả thuyết và giả thuyết được nghiệm đúng. Nhiều phản ứng hoa học quan trọng trong công nghiệp đều diễn ra bằng con đường dây chuyền như thế: quá trình thu xăng từ dầu hoả, sự cháy trong động cơ đốt trong,sự tạo thành chất dẻo bằng cách trùng hợp,…

Trí tưởng tượng đặc biệt của Sêmiônốp đã liên kết được hai hiện tượng không có quan hệ gì với nhau trong thực tế.

Từ mối liên kết này, đã hình thành lý thuyết dây chuyền trong phản ứng hoá học dẫn ông tới giải thưởng Nôben.

Trí tưởng tượng sẽ dẫn tới phát minh đều đòi hỏi một cố gắng phân tích và tổng hợp của trí tuệ. Phải biết tách biệt các số liệu liên kết với nhau trong quá trình nghiên cứu, trong kinh nghiệm hàng ngày và lắp ghép chúng theo cách độc đáo, riêng biệt cho mình. Trong lao động này, trí tuệ thoạt đầu chỉ có một vài khái niệm chưa rõ ràng, về sau tổng hợp sẽ hình thành dần rõ nét.

Nhà phát minh ra cái máy mới, lúc đầu hình dung chưa rõ nét sơ đồ của máy đang nghiên cứu. Anh sẽ mò mẫn phát hiện ra chuyển vận chung của máy. Sau đó, anh nghĩ tới hình dạng của các bộ phận và cách kết hợp các bộ phận đó để bảo đảm cho sự chuyển vận của toàn bộ máy.

Mỗi phát minh lớn đòi hỏi một trí tưởng tượng phong phú. Phát minh lớn là phát minh phong phú, đa dạng mở đường cho nhiều phát minh khác. Đây là những hệ thống ý niệm mới và súc tích, là những học thuyết mới mà các nhà khoa học dựa vào đó để triển khai trong nhiều lĩnh vực. Phát minh lớn là của các thiên tài.

Người tài năng chỉ có một tác phẩm, người thiên tài có nhiều tác phẩm độc đáo, đa dạng.

Đăc điểm của thiên tài là một trí tưởng tượng mãnh liệt hướng về tự nhiên.

Người thiên tài nhờ lao động kiên trì, tích luỹ rất nhiều tư liệu các loại; và trí tuệ ở tình trạng hoạt động tiềm thức. Tới lúc nào đó là ngẫu hứng. Lao động tiềm thức chuyển sang lao động ý thức. Tia lửa của sáng tác phát minh nảy sinh.

Thiên tài là sức mạnh tổng hợp có thể tạo ra những ý niệm hoàn toàn mới, không một khao học nào có thể nhìn trước, ngay cả lúc sinh thời, nhà bác học cũng không nghĩ tới. Đây là mức độ cuối cùng của sức mạnh trí tuệ.

Những thiên tài khoa học thường được coi như những bó đuốc soi sáng từng chặng đường khoa học cua nhân loại.

Đây là cái vốn quý của loài người vì họ không phải là sản phẩm của thời đại, mà đi trước thời đại.

Một môn đồ nói về khả năng sáng tạo của Anxtanh như sau: Thứ nhất về khă năng ngạc nhiên…ông nhìn nhận mọi vấn đề hầu như là hoàn toàn mới đối với ông, đặt ra câu hỏi tại sao và không hề thưa nhận một giải đáp nào dựa trên quyền lực. Thứ hai là khẳ năng suy nghĩ nhiều năm về cùng một vấn đề cho đến khi cái “bóng tối biến thành ánh sáng của sự hiểu biết”.

Thứ ba là khả năng tìm những công thức cho những thực nghiệm lý tưởng đơn giản, những thực nghiệm không thể nào thực hiện được trên thực tế, nhưng lại được phân tích một cách thích hợp.

Paxtơ là một thiên tài khoa học ở thế kỷ XIX. Bắt đầu nghiên cứu hoá học, ông phát hiện ra tính phân cực của tinh thể.

Khi chuyển sang nghiên cứu về phát men của rượu vang, bia, ông phát minh ra men rượu. Tới lúc bắt tay nghiên cứu các bệnh của tằm, ông phát minh ra tác nhân gây bệnh và con đường truyền bệnh.

Sau đó, ông chuyển sang nghiên cứu về vi khuẩn gây bệnh (bệnh than của gia súc, bệnh sốt hậu sản, bệnh toi gà, bệnh lợn đóng dấu, bệnh tả, bệnh dại…).

Từ đó, ông phát minh ra phương pháp sinh hoá (vacxin) để phòng bệnh.

Paxtơ đã đi từ hoá học đến men, từ men đến vi sinh vật, từ vi sinh vật đến y học. Các luận điểm về vi trùng của ông đã được triển khai thành nhiều lĩnh vực khoa học mới: Vi khuẩn học, men học, miễn dịch học, những ngành mũi nhọn trong khoa học thực nghiệm ngày nay.

Chúng cũng được triển khai trong các lĩnh vực

0