25/05/2018, 12:07

Tự lực văn đoàn

Tự Lực văn đoàn là một văn đoàn do Nhất Linh cùng một số nhà văn khác thành lập vào năm 1933 . Trong khoảng 10 năm tồn tại, Tự Lực văn đoàn với những sáng tác văn học, hoạt động báo chí, trao giải thưởng, tạo nhiều ảnh hưởng đến văn học Việt Nam thời kỳ đó. ...

Tự Lực văn đoàn là một văn đoàn do Nhất Linh cùng một số nhà văn khác thành lập vào năm 1933 . Trong khoảng 10 năm tồn tại, Tự Lực văn đoàn với những sáng tác văn học, hoạt động báo chí, trao giải thưởng, tạo nhiều ảnh hưởng đến văn học Việt Nam thời kỳ đó. Tự Lực văn đoàn cũng là đại biểu của văn học lãng mạn Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ 20.

Danh sách Tự Lực văn đoàn, theo Tú Mỡ công bố trên tạp chí Văn học số 5-6 năm 1938 và số 1 năm 1939, gồm có:

Thành viên Tên thật
Nhất Linh Nguyễn Tường Tam
Khái Hưng Trần Khánh Giư
Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long
Thạch Lam Nguyễn Tường Vinh
Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu
Thế Lữ Nguyễn Thứ Lễ
Xuân Diệu Ngô Xuân Diệu
Trần Tiêu Trần Tiêu

Ngoài ra còn có một số nhà văn khác cộng tác chặt chẽ với Tự Lực văn đoàn như: Trọng Lang, Huy Cận, Thanh Tịnh, Đoàn Phú Tứ. Cơ quan ngôn luận của Tự Lực văn đoàn là báo Phong Hóa, và tờ Ngày Nay sau khi Phong Hóa bị đóng cửa vào năm 1936.

Sách của Tự Lực văn đoàn được in ở nhà in Trung Bắc Tân văn, sau đó họ có nhà in riêng là Đời nay. Bìa sách và tranh được minh họa bởi những họa sĩ nổi tiếng Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân.

Tên gọi của

chính thức thành lập năm 1933. Đây là cơ quan văn đoàn, cơ quan ngôn luận hoàn toàn tự lực về mọi mặt: có nhà in riêng, có nhà phê bình, có hội đồng công nhận và trao giải thưởng giống như Hội nhà văn Việt Nam hiện nay.

là một cơ quan ngôn luận đặc biệt, được thành lập bởi 8 thành viên : Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), Khái Hưng (Trần Khánh Giư), Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), Thế Lữ_Lê Ta (Nguyễn Thứ Lễ), Xuân Diệu (Ngô Xuân Diệu), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), Trần Tiêu (em của Khái Hưng)

* Tôn chỉ mục đích hoạt động của nhóm bao gồm 10 điều:

Các sáng tác của các thành viên trong phải yêu đời (đối lập với chán nản), mới cả về nội dung lẫn hình thức (đối lập với cái cũ), trẻ trung và tiến bộ (đối lập lập với cái lạc hậu), phải làm cho mọi người biết theo tư tưởng bình dân không có tư tưởng quý phái, làm cho mọi người nhận thức được đạo Khổng (tư tưởng Khổng _Mạnh) không còn hợp thời nữa, đem văn phong của phương Tây vào văn chương An Nam cả nội dung và hình thức.

Ngôn ngữ của có sự cách tân theo hướng trong sáng, mộc mạc làm cho người đọc dễ hiểu vì không sử dụng các điển cố - điển tích, không viết theo lối văn biền ngẫu.

Chú thích: Vì văn chương Việt Nam giai đoạn trước (nền văn chương Trung đại Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVIII) chịu ảnh hưởng rất sâu sắc bởi nền văn học Trung Quốc. Còn điển cố điển tích: Những câu chuyện hoặc những tích xưa của văn học Trung Quốc được cô đúc và được sử dụng để tăng thêm tính uyên bác cho văn chương. Như trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, để hiểu được môt số câu, người đọc phải biết một số điển cố - điển tích như: lá thắm chỉ hồng, liễu Chương Đài, bát cơm Phiếu Mẫu, gương vỡ lại lành...

Nếu đối tượng tiếp nhận các tác phẩm của văn học Trung Đại là tầng lớp quý tộc và trí thức trong xã hội phong kiến, thì các tác phẩm của đã mở rộng đến những người bình dân. Vì ngôn ngữ mà sử dụng không đòi hỏi người đọc phải có vốn hiểu biết nhất định mới có thể hiểu được như văn chương của văn học Trung Đại. Đây là một điểm đổi mới tiến bộ của .

Khi ra đời, Tự Lực văn đoàn có đề ra tôn chỉ mục đích rõ ràng: "Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ. Theo chủ nghĩa bình dân, không có tính cách trưởng giả quý phái. Tôn trọng tự do cá nhân. Làm cho người ta biết đạo Khổng không hợp thời nữa. Đem phương pháp Thái Tây áp dụng vào văn chương An Nam."

* Tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn ca ngợi tình yêu tự do và đề cao hạnh phúc cá nhân.

1887: Thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản được xuất bản. Đây là tiểu thuyết đầu tiên của Việt Nam. Tiểu thuyết đầu tiên của Việt Nam được viết bằng chữ quốc ngữ theo kết cấu của tiểu thuyết hiện đại (tức là không được viết theo kết cấu chương hồi như tiểu thuyết của Trung Quốc).

Không chỉ sáng tác văn học, Tự Lực văn đoàn còn trao các giải thưởng cho các nhà văn không thuộc nhóm. Giải thưởng Tự Lực văn đoàn cứ 2 năm xét trao giải một lần, xét vào các năm lẻ là 1935, 1937, 1939. Giải thưởng này chỉ trao cho các tác giả không phải là thành viên của Tự Lực văn đoàn, vì vậy mà tính khách quan của giải thưởng được "dư luận chung trong Văn giới đánh giá rất cao". Giải thưởng được đánh giá "thực sự là một giải thưởng lớn, đáng trân trọng trong tâm tưởng của các nhà văn và bạn đọc lúc bấy giờ." [2]

Giải thưởng năm 1935

Gồm bốn giải khuyến khích với tổng số tiền thưởng là 100 đồng.

* Ba, truyện ngắn của Đỗ Đức Thu.

* Diễm dương trang, tiểu thuyết của Phan Văn Dật.

* Bóng mây chiều, tiểu thuyết của Hàn Thế Du.

Giải thưởng năm 1937

* Về kịch, trao cho Kim tiền của Vi Huyền Đắc, kèm theo 50 đồng.

* Về phóng sự tiểu thuyết[3], trao cho Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, kèm theo 30 đồng.

* Giải khuyến khích, trao cho tiểu thuyết đầu tay Nỗi lòng của Nguyễn Khắc Mẫn.

Giải thưởng năm 1939

Được trao đồng hạng cho:

* Làm lẽ, tiểu thuyết của Mạnh Phú Tư

* Cái nhà gạch, tiểu thuyết của Kim Hà (khi xuất bản thành sách tác phẩm này đổi tên gọi là Tiếng còi nhà máy)

Hai tiểu thuyết này được thưởng mỗi cuốn 100 đồng.

* Hai tập thơ Bức tranh quê của Anh Thơ và Nghẹn ngào của Tế Hanh.

* Bướm Trắng, Nhất Linh

* Đoạn Tuyệt, Nhất Linh

* Hồn Bướm Mơ Tiên, Khái Hưng

* Nửa Chừng Xuân, Khái Hưng

* Gánh Hàng Hoa, Nhất Linh - Khái Hưng

* Đời Mưa Gió, Nhất Linh - Khái Hưng

* có những đóng góp to lớn cho văn học Việt Nam. Về văn xuôi, những tiểu thuyết của là những tiểu thuyết đầu tiên thật sự mới về nội dung tư tưởng lẫn phong cách. Cách hành văn, diễn đạt trong sáng của đã được nhiều nhà văn, nhà thơ, học giả noi theo. Có thể nói, đã góp phần to lớn giúp văn xuôi Việt Nam phát triển lên một tầm mới. Về thơ, các giải thưởng của đã góp phần tạo nên một phong trào văn học sôi nổi lúc bấy giờ, và đã động viên, khuyến khích các nhà văn, nhà thơ trẻ.

* Tuy nhiên, các tác phẩm của nhanh chóng trở nên "mòn sáo" về nội dung và nghệ thuật. Các tác phẩm của phạm một sai lầm phổ biến là quá lãng mạn, quá tưởng tượng đến mức vô lý, đến mức "tiểu thuyết chỉ là tiểu thuyết" (Vũ Trọng Phụng). Vì thế các sáng tác của phần lớn thiếu tính chiến đấu, thiếu tính hiện thực, như muốn thoát li khỏi hiện thực. Nội dung tư tưởng chỉ chủ yếu chống lại lễ giáo phong kiến chứ chưa trực tiếp động chạm đến đế quốc thực dân, chưa trực tiếp bảo vệ quyền lợi của quần chúng nhân dân, chưa phản ánh đầy đủ những vấn đề bức xúc của xã hội đương thời. Nhiều phong trào của bị thực dân Pháp lợi dụng.

* Với một số nhà nghiên cứu nước ngoài như Neil Jamieson thì văn chương thực sự là một nguồn dữ liệu quan trọng để nghiên cứu các biến chuyển về chất trong xã hội Việt Nam trong giai đoạn hiện đại, chẳng hạn như phân tích và so sánh quá trình hình thành của chủ nghĩa cá nhân.

0