04/06/2017, 23:48
Trong đoạn thơ Đất Nước trích trường ca "Mặt đường khát vọng” của tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã quan niệm đất nước như thế nào? So với những nhà thơ khác, quan niệm của Nguyễn Khoa Điềm có điểm gì mới về tư tưởng và hình thức biểu hiện?
Đất nước là một đề tài quen thuộc của văn học xưa nay, được diễn đạt tùy theo cá nhân và quan điểm của các nhà thơ, nhà văn. Nguyễn Khoa Điềm, một nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ đã có những suy nghĩ mới mẻ về đất nước trong một phần thơ trữ tình chính luận "Đất nước", trích ...
Đất nước là một đề tài quen thuộc của văn học xưa nay, được diễn đạt tùy theo cá nhân và quan điểm của các nhà thơ, nhà văn. Nguyễn Khoa Điềm, một nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ đã có những suy nghĩ mới mẻ về đất nước trong một phần thơ trữ tình chính luận "Đất nước", trích trường ca Mặt đường khát vọng.
Theo Nguyễn Khoa Điềm, đất nước không là của riêng ai, mà là của toàn thể nhân dân. Hàng triệu người vô danh từ thế hệ này sang thế hệ khác đã đổ bao mồ hôi và xương máu để bảo vệ và xây dựng đất nước:
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Trong suốt bốn nghìn năm dựng nước, nhân dân ta đã chiến đấu, lao động, tạo nên bộ mặt lãnh thổ, nền văn hóa dân tộc, những mối quan hệ gia đình, làng xóm, tổ tiên, quan hệ với thiên nhiên, lịch sử...:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...
Đất nước không phải là những gì xa xôi trừu tượng mà thật cụ thể, gắn bó thiết thân với tình cảm và sinh hoạt hằng ngày của chúng ta:
Đất là nơi anh đến trường,
Nước là nơi em tắm,
Đất Nước là nơi ta hò hẹn,
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.
Và hiện hữu ngay trong bản thân mỗi người chúng ta:
Trong anh và em hôm nay,
Đều có một phần Đất Nước,
Khi hai đứa cầm tay,
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm.
Quan niệm về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm có điểm khác với quan niệm phong kiến ngày xưa - đất nước là của nhà vua:
Nam quốc sơn hà nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
(Lí Thường Kiệt)
Quan niệm của Nguyễn Khoa Điềm cũng có điểm khác với quan niệm của các nhà yêu nước ở đầu thế kỉ XX - đất nước là của những bậc anh hùng làm nên lịch sử:
Nọ thuở trước đánh Tàu mấy lớp.
Cõi trời Nam cơ nghiệp mở mang.
Sông Đằng lớp sóng Trần vương,
Núi Lam rẽ khói mở đường nhà Lê.
Quang Trung đế từ khi độc lập,
Khí anh hùng đầy lấp giang sơn.
(Phan Bội Châu)
Về hình thức biểu hiện đất nước, bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm cũng có điểm mới mẻ, sáng tạo. Thơ ca cổ điển thường dùng tiếng cuốc kêu tượng trưng cho lòng nhớ thương nước nhà:
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,
(Bà Huyện Thanh Quan)
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.
(Nguyễn Khuyến)
Chịu ảnh hưởng của văn học phương Tây, vào những năm 20 của thế kỉ này, Tản Đà đã dùng hình ảnh bức dư đồ để tượng trưng cho đất nước:
Nọ bức dư đồ thử đứng coi,
Sông sông núi núi khéo bia cười.
Khi Cách mạng tháng Tám thành công, Xuân Diệu viết “Ngọn quốc kì” ca ngợi đất nước:
Việt Nam! Việt Nam! Cờ đỏ sao vàng!
Những ngực nén hít thở Ngày độc Lập!
Riêng Nguyễn Khoa Điềm sử dụng những hình ảnh trong ca dao, tục ngữ truyền thuyết muôn màu muôn vẽ, trải dài trong không gian, xuyên suốt cả thời gian, lắng đọng trong tâm tưởng ta qua những liên tưởng kì thú để tượng trưng cho đất nước. Trước hết, đất nước đã có từ lâu đời, qua Sự tích trầu cau, truyền thuyết Thánh Gióng:
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết tròng tre mà đánh giặc.
Qua những mĩ tục thể hiện lối sống giàu tình nặng nghĩa:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Qua đời sống lao động thật vất vả để lo cái ở, để lo cái ăn:
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng.
Tóm lại, đất nước là một đề tài quen thuộc trong văn chương. Nhưng Nguyễn Khoa Điềm có quan niệm về đất nước thật mới mẽ. Cách trình bày đa dạng, sinh động, từ truyền thống văn hóa dân tộc trong quá khứ đến hiện tại và tương lai, gây ấn tượng sắc cho người đọc.
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Trong suốt bốn nghìn năm dựng nước, nhân dân ta đã chiến đấu, lao động, tạo nên bộ mặt lãnh thổ, nền văn hóa dân tộc, những mối quan hệ gia đình, làng xóm, tổ tiên, quan hệ với thiên nhiên, lịch sử...:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...
Đất nước không phải là những gì xa xôi trừu tượng mà thật cụ thể, gắn bó thiết thân với tình cảm và sinh hoạt hằng ngày của chúng ta:
Đất là nơi anh đến trường,
Nước là nơi em tắm,
Đất Nước là nơi ta hò hẹn,
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.
Và hiện hữu ngay trong bản thân mỗi người chúng ta:
Trong anh và em hôm nay,
Đều có một phần Đất Nước,
Khi hai đứa cầm tay,
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm.
Quan niệm về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm có điểm khác với quan niệm phong kiến ngày xưa - đất nước là của nhà vua:
Nam quốc sơn hà nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
(Lí Thường Kiệt)
Quan niệm của Nguyễn Khoa Điềm cũng có điểm khác với quan niệm của các nhà yêu nước ở đầu thế kỉ XX - đất nước là của những bậc anh hùng làm nên lịch sử:
Nọ thuở trước đánh Tàu mấy lớp.
Cõi trời Nam cơ nghiệp mở mang.
Núi Lam rẽ khói mở đường nhà Lê.
Quang Trung đế từ khi độc lập,
Khí anh hùng đầy lấp giang sơn.
(Phan Bội Châu)
Về hình thức biểu hiện đất nước, bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm cũng có điểm mới mẻ, sáng tạo. Thơ ca cổ điển thường dùng tiếng cuốc kêu tượng trưng cho lòng nhớ thương nước nhà:
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,
(Bà Huyện Thanh Quan)
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.
(Nguyễn Khuyến)
Chịu ảnh hưởng của văn học phương Tây, vào những năm 20 của thế kỉ này, Tản Đà đã dùng hình ảnh bức dư đồ để tượng trưng cho đất nước:
Nọ bức dư đồ thử đứng coi,
Sông sông núi núi khéo bia cười.
Khi Cách mạng tháng Tám thành công, Xuân Diệu viết “Ngọn quốc kì” ca ngợi đất nước:
Việt Nam! Việt Nam! Cờ đỏ sao vàng!
Những ngực nén hít thở Ngày độc Lập!
Riêng Nguyễn Khoa Điềm sử dụng những hình ảnh trong ca dao, tục ngữ truyền thuyết muôn màu muôn vẽ, trải dài trong không gian, xuyên suốt cả thời gian, lắng đọng trong tâm tưởng ta qua những liên tưởng kì thú để tượng trưng cho đất nước. Trước hết, đất nước đã có từ lâu đời, qua Sự tích trầu cau, truyền thuyết Thánh Gióng:
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết tròng tre mà đánh giặc.
Qua những mĩ tục thể hiện lối sống giàu tình nặng nghĩa:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Qua đời sống lao động thật vất vả để lo cái ở, để lo cái ăn:
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng.
Tóm lại, đất nước là một đề tài quen thuộc trong văn chương. Nhưng Nguyễn Khoa Điềm có quan niệm về đất nước thật mới mẽ. Cách trình bày đa dạng, sinh động, từ truyền thống văn hóa dân tộc trong quá khứ đến hiện tại và tương lai, gây ấn tượng sắc cho người đọc.