04/06/2017, 00:35
Tràng giang mang nỗi buồn mênh mang, sâu lắng trong giọng thơ vừa cổ điển vừa lãng mạn rất tiêu biểu cho hồn thơ của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Hãy phân tích và chứng minh.
Xuân Diệu đã tự ví mình và Huy Cận như Rim-bô và Véc-len: Hai chàng thi sĩ choáng hơi men Say thơ xa lạ mê tình bạn Khinh rẻ khuôn mòn bỏ lối quan Say thơ xa lạ - đó là thơ lãng mạn phương Tây của thế kỷ XIX. Tuy vậy, Huy Cận còn là người rất thích thơ Đường và trân trọng vốn thơ ca dân tộc. Từ ...
Xuân Diệu đã tự ví mình và Huy Cận như Rim-bô và Véc-len: Hai chàng thi sĩ choáng hơi men Say thơ xa lạ mê tình bạn Khinh rẻ khuôn mòn bỏ lối quan
Say thơ xa lạ - đó là thơ lãng mạn phương Tây của thế kỷ XIX. Tuy vậy, Huy Cận còn là người rất thích thơ Đường và trân trọng vốn thơ ca dân tộc. Từ buổi thiếu niên, tác giả đã thuộc lòng khá nhiều ca dao, thơ Đường, thơ Nguyễn Du... Lẽ vậy chăng, trong những câu thơ tuyệt đỉnh của Huy Cận có cả những vần thơ vừa cổ điển vừa lãng mạn. Nét cổ điển và hiện đại đan cài vào nhau, kết hợp hài hòa với nhau, trong thơ và trong con người thi sĩ Huy Cận- sự kết hợp tinh tế của hai nền văn hóa Đông và Tây nhưng lại giao nhau ở một tâm hồn nghệ sĩ đa cảm đa sầu. Lần đầu tiên, Huy Cận mang tác phẩm Lửa thiêng bỡ ngỡ theo Xuân Diệu bước chân vào hội Tao đàn thi sĩ thì trong thơ Việt Nam nghe bừng dậy một tiếng địch buồn. Điệu buồn ảo não ở Huy Cận đã tự tìm đến một cảm hứng riêng để ký thác: Cảm hứng vũ trụ.
Như Voltaire từng nói: Thơ là âm nhạc của tâm hồn nhất là những tâm hồn cao cả và đa cảm. Và Tràng giang mang một nỗi buồn mênh mang, sâu lắng trong giọng thơ vừa cổ điển vừa lãng mạn, rất tiêu biểu cho hồn thơ của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Xuân Diệu từng có một nhận xét rất tinh tế: Bài thơ hầu như đã trở thành cổ điển của một nhà thơ mới. Nét cổ điển được thể hiện ngay từ tiêu đề tác phẩm: Tràng giang - Tràng là một âm khác của Trường có nghĩa là dài. Tuy nhiên, Huy Cận đã chọn Tràng giang vì nó chẳng những đã chứa trong mình cả Tràng giang mà nhờ âm ang đã gồm cả nét nghĩa sông rộng, sông lớn mở ra một khoảng không gian bao la vô tận. Dường như cảnh càng bát ngát thì tình càng miên man. Và Huy Cận bởi quá cảm nghe với mênh mông thì giọng thơ của người cũng lấy cái sầu của vũ trụ. Bài thơ mở ra bằng lời đề từ:
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
Dường như đã gói trọn cảm hứng chủ đạo của tác phẩm. Đó là nỗi niềm cảm nhận sâu xa của cái tôi cô đơn trước cái vô cùng của trời đất. Trong nỗi niềm ấy, Tràng giang đầy nỗi nhớ không gian, khao khát được giao cảm giữa con người với vũ trụ, đồng thời muốn hòa nhập vào cái tiểu ngã hữu hạn và cái đại ngã vô hạn. Thơ xưa thi nhân tìm đến thiên nhiên vũ trụ luôn nhận môi đồng cảm tương giao. Huy Cận cũng đến với vũ trụ nhưng khác thơ xưa là tác giả chỉ nhận thấy thấm thía nỗi buồn của cái tôi cô độc, với cái cảm giác bâng khuâng, dợn dợn trước không gian bao la. Phải chăng nguồn mạch thơ mới của bài Tràng giang cũng chính là ở đó.
Trước hết, ta bắt gặp một không gian vũ trụ mênh mông Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Sắc thái cố điển và hiện đại hòa quyện, nhuần nhuyễn để làm nổi rõ thiên nhiên vắng lặng và buồn. Tràng giang đó, bình thản suy tư qua bao lớp sóng buồn điệp điệp, qua dòng khơi nước song song, cảm giác buồn ấy lại gửi trong vần điệu, trong những từ gợi hình ảnh mong manh càng làm tăng thêm mỗi lúc và trải dài mãi không thôi, càng làm thấm đẫm trong từng cảnh vật.
Giữa dòng sông mênh mông ấy, giữa những con sóng ấy xuất hiện một con thuyền mong manh
Con thuyền xuôi mái nước song song
Tưởng như sự xuất hiện của con thuyền sẽ làm cho không gian trở nên tươi vui hơn, nhưng ngược lại, con thuyền ấy lại khiến cho cảnh vật ở con sông này thêm đìu hiu. Cảnh thêm hiu hắt khi giữa dòng nước mênh mông ấy điểm thêm cành củi khô lạc từ đâu đến.
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Tác giả đã ngắm dòng sông từ dài, chiều rộng, rồi tới chiều sâu:
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Không gian như vụt lớn hơn. Trên bức tranh sông dài lại hiện lên bầu trời sâu thẳm: Sâu chót vót - sâu đã gợi lên cho người đọc ấn tượng thăm thẳm, hun hút khôn cùng mà lại sâu chót vót thì chiều cao càng vô tận. Câu thơ bảy chữ thì ba chữ vần bằng nằm giữa bốn vần trắc, dường như nhấn mạnh thêm không gian vô tận giữa mặt đất sâu thẳm và trời cao chót vót. Cái đẹp ở đây chính là tác giả đã đặt những hình ảnh ấy trong một thế giới hài hòa nghệ thuật tuyệt diệu nắng xuống - trời lên không gian ba chiều. Con người như trở nên nhỏ bé và có phần rợn ngợp trước cái bao la vĩnh hằng của vũ trụ, cái xa vắng của thời gian:
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Cũng như câu thơ:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Thiên nhiên hiện ra buồn nhưng cũng thật tráng lệ. Nét đặc trưng này của không gian đã được Đỗ Phủ miêu tả trong bài Thu hứng:
Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Lấy lại ý thơ người xưa, hình ảnh mây cao đùn núi bạc trong bài thơ gợi lên ấn tượng về sự mênh mông của vũ trụ. Nếu trên kia là sông nước Tràng giang điệp điệp, song song thì bây giờ là mây cao những lớp mây trăng cứ đùn lên trùng trùng điệp điệp phía chân trời. Huy Cận không viết đùn sóng bạc nghĩa là những áng mây như muôn ngàn con sóng tung bọt trắng mà viết đùn núi bạc khiến cho không gian vũ trụ không chỉ hiện lên bao la vô tận mà còn hùng vĩ nữa... thế nhưng cũng khác thơ xưa, cảnh vật mỗi lúc một bao la thì hồn người trong bài Tràng giang càng thêm cô độc, lạc loài. Thi nhân vốn sớm vương nỗi sầu thiên cổ mang mang hẳn không khỏi khao khát được giao cảm, tương thông với trời đất vô cùng.
Nếu không gian vũ trụ qua Tràng giang hiện lên với tất cả vẻ đẹp bao la kì vĩ mênh mông thì đối lập với nó không gian của cõi nhân thế lại bé nhỏ cô đơn lạc loài:
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Đó là hình ảnh của con thuyền côi cút và cành khô lạc loài giữa sông nước mênh mông. Vào những năm ba mươi, đây là một trong những câu thơ mới mẻ, bởi nó xuất hiện cái tầm thường, nhỏ nhoi vô nghĩa như một cành củi khô. Trong cảm thức xa vắng về không gian, đối với Huy Cận, con thuyền, cành khô chỉ gợi lên sự đơn lẻ thấm thía nỗi buồn chia lìa, lạc loài đang đón đợi. Thuyền về nước thì lại nghĩa là nghịch chiều nhau. Tuy chỉ có hai hướng thôi nhưng lai tạo nên mối sầu trăm ngả và cành cây chỉ là củi một cành khô. Nếu nói như Huy-gô ngôn ngữ cũng chỉ là sinh vật thì ở sinh vật ấy đang bơ vơ, đau xót, bất lực vì nước xô đẩy: Lạc mấy dòng nó hàm chứa cả cái gì đó côi cút, tan tác đến tội nghiệp. Với cách đặt từ một giữa hai số từ trăm và mấy trong những câu thơ khiến hình ảnh cõi nhân thế dường như càng nhỏ lại, bế tắc tột cùng. Tất cả như vây bủa lấy cảnh vật trong sự lạc lõng, đơn côi. Nỗi buồn đó càng như da diết mãi không thôi:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Vài dải đất giữa sông dài, vài ngọn gió hiu hiu nhưng không đủ làm sống động cảnh vật, và âm thanh cả tiếng làng xa vãn chợ chiều thì mơ hồ, mong manh lắm không làm bớt đi sự vắng lặng của cảnh. Bấy nhiêu hình ảnh dường như chỉ là những nét chấm phá, tô đậm thêm không gian cao rộng của vũ trụ mà thôi.
Thơ Đường tả Tràng giang chỉ qua một vài nét chấm phá đơn sơ, bình lặng hiền hòa, không đi sâu vào chi tiết:
Xanh um cổ thụ tròn xoe tán
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ
Huy Cận cũng miêu tả Tràng giang theo trường phái phương Đông truyền thống. Nhưng Tràng giang vẫn là một bài thơ hiện đại, không chỉ hiện đại ở hình ảnh, thi liệu mà còn ở cảm xúc của nhà thơ lãng mạn. Huy Cận đã soi chiếc linh hồn nhỏ của mình lên sông nước Tràng giang:
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Một loạt tính từ mênh mông, lặng lẽ đã gợi lên không khí vắng vẻ, u buồn. Nỗi buồn như càng được khắc sâu qua hình ảnh những cánh bèo dạt trôi nổi lênh đênh. Hình ảnh đó là ngẫu nhiên nhìn thấy hay vì thi nhân đã liên tưởng đến thân phận hoa trôi bèo dạt của những kiếp người chìm nổi long đong trong xã hội. Tâm trạng chung của lớp trẻ của những năm ba mươi là thế. Nhưng không phải vì vậy mà họ quên hết chất thơ, chất đẹp ở đời. Ngay cả khi phủ định tất cả không chuyến đò ngang, không cầu gợi chút niềm thân mật cũng chính là bộc lộ tấm lòng của thi nhân yêu cuộc sống, tha thiết mong mỏi niềm giao cảm. Không gian trần thế vì vậy qua cái nhìn của thi sĩ dù sầu tư lai láng nhưng vẫn lung linh có hồn. Tình càng sâu thì cảnh càng đẹp:
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Hình ảnh cánh chim đơn lẻ trong buổi chiều tà càng gợi lên những nỗi buồn xa vắng của lòng người. Nhưng cánh chim ấy lại chao xuống vì sức nặng của hoàng hôn nhịp nhàng với buổi chiều bóng xế. Hình ảnh đẹp vừa cổ điển vừa lãng mạn. Nếu như Nguyễn Du thấy Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha, Hàn Mặc Tử cũng nhận ra bóng xuân sang trên một giàn thiên lý thì Huy Cận, thi nhân cũng rất tinh tế nhận thấy bóng chiều trong một cánh chim nghiêng. Chính là nhà thơ đã phá lôgíc của nghệ thuật cũng vì vậy cánh chim hiện lên sinh động hơn, đẹp hơn và đặc biệt cũng buồn da diết trước cái nhỏ bé, cô đơn giữa vũ trụ bao la.
Từ những hình ảnh quen thuộc của cuộc sống thế gian, một cành củi khô, cồn nhỏ lơ thơ, con thuyền nhỏ, cánh chim... đã hắt vào tác phẩm vẻ tử biệt sinh ly, vẻ sầu bi của nó. Chỉ vài nét chấm phá thôi, Huy Cận đã khơi gợi cảm giác lẻ loi chia ly trong lòng người, trong cảnh vật. Đó cũng là tâm lý tự nhiên của con người, cảm giác nhỏ bé trước thiên địa vô thủy vô chung:
Ai người trước đã qua
Ai người sau đã tới
Nghĩ trời đất vô cùng
Một mình tuôn giọt lệ
Trần Tử Ngang
Cảnh tình ấy khiến thi nhân không thê bâng khuâng và thầm mong ước. Nó kết tinh thành tình quê hương tha thiết:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Âm hưởng Đường thi triền miên trong câu thơ. Lấy lại ý thơ của Thôi Hiệu:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhản sầu
Nhưng Huy Cận khác, trong buổi hoàng hôn ấy không hề có trên sông khói sóng, tạo điều kiện phản xạ gợi nhớ hương quan (cống làng- đường về quê cũ) như tác phẩm Hoàng Hạc lâu. Phải chăng chính cảm giác dợn dợn của chủ thể lãng mạn đã làm nảy sinh tâm lý nhớ nhà. Nhớ nhà, muốn được trở về có mặt giữa gia đình, quê cha là để hóa giải cảm giác dợn dợn bơ vơ của kẻ tha hương. Tình quê trong bài Tràng giang nhờ vậy da diết hơn, thường trực hơn. Nó không chỉ là những dòng ý nghĩ lộ thiên đơn giản mà xuất phát từ quy luật thầm kín tự đáy thẳm tâm linh của con người.
Tuy vậy, ý thơ không chỉ dừng lại ở một tình quê hương thuần túy. Phải chăng lòng quê dợn dợn vời con nước còn thể hiện nỗi niềm của một cái tôi cô độc, nhỏ bé trước vũ trự đang tìm về, giao hòa, nương tựa vào cái-ta rộng lớn hơn. Chất lãng mạn của bài Tràng giang là đấy, bên cạnh nỗi niềm cô đơn là nỗi niềm nhân thế:
Đạm đạm trường giang thủy
Du du viễn khách tình
Có thể nói Tràng giang là bài thơ chứa đầy không gian và tâm trạng. Là không gian vũ trụ, cảnh sắc bao la, vô tận mà cũng thật tráng lệ. Là không gian nhân thế, cảnh lại hiện lên cô đơn, lạc loài. Bao trùm lên bức tranh thiên nhiên là sự tĩnh lặng gần như tuyệt đối. Duy chỉ có tấm lòng nhà thơ đang thầm vọng trong xa thẳm:
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
Hai mươi năm sau, cũng đứng trước một không gian vô tận của đại dương lúc hoàng hôn, Huy Cận đã viết những vần thơ vui tươi khỏe khoắn:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm với gió khơi
Nhưng đó là sau này, khi Huy Cận đang viết Trời mỗi ngày một sáng. Còn ở đây, cảm giác vũ trụ ở Huy Cận là sự khắc khoải cô đơn khi đối diện với đất trời vô tận, vô cùng. Bài thơ Tràng giang vì thế mang nỗi buồn mênh mang sâu lắng trong giọng thơ vừa cổ điển vừa lãng mạn. Nỗi buồn của Huy Cận trước sau vẫn là nỗi buồn trong sáng, góp phần làm phong phú hồn người và làm nên vẻ đẹp riêng của bài thơ.
Như Voltaire từng nói: Thơ là âm nhạc của tâm hồn nhất là những tâm hồn cao cả và đa cảm. Và Tràng giang mang một nỗi buồn mênh mang, sâu lắng trong giọng thơ vừa cổ điển vừa lãng mạn, rất tiêu biểu cho hồn thơ của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Xuân Diệu từng có một nhận xét rất tinh tế: Bài thơ hầu như đã trở thành cổ điển của một nhà thơ mới. Nét cổ điển được thể hiện ngay từ tiêu đề tác phẩm: Tràng giang - Tràng là một âm khác của Trường có nghĩa là dài. Tuy nhiên, Huy Cận đã chọn Tràng giang vì nó chẳng những đã chứa trong mình cả Tràng giang mà nhờ âm ang đã gồm cả nét nghĩa sông rộng, sông lớn mở ra một khoảng không gian bao la vô tận. Dường như cảnh càng bát ngát thì tình càng miên man. Và Huy Cận bởi quá cảm nghe với mênh mông thì giọng thơ của người cũng lấy cái sầu của vũ trụ. Bài thơ mở ra bằng lời đề từ:
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
Dường như đã gói trọn cảm hứng chủ đạo của tác phẩm. Đó là nỗi niềm cảm nhận sâu xa của cái tôi cô đơn trước cái vô cùng của trời đất. Trong nỗi niềm ấy, Tràng giang đầy nỗi nhớ không gian, khao khát được giao cảm giữa con người với vũ trụ, đồng thời muốn hòa nhập vào cái tiểu ngã hữu hạn và cái đại ngã vô hạn. Thơ xưa thi nhân tìm đến thiên nhiên vũ trụ luôn nhận môi đồng cảm tương giao. Huy Cận cũng đến với vũ trụ nhưng khác thơ xưa là tác giả chỉ nhận thấy thấm thía nỗi buồn của cái tôi cô độc, với cái cảm giác bâng khuâng, dợn dợn trước không gian bao la. Phải chăng nguồn mạch thơ mới của bài Tràng giang cũng chính là ở đó.
Trước hết, ta bắt gặp một không gian vũ trụ mênh mông Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Sắc thái cố điển và hiện đại hòa quyện, nhuần nhuyễn để làm nổi rõ thiên nhiên vắng lặng và buồn. Tràng giang đó, bình thản suy tư qua bao lớp sóng buồn điệp điệp, qua dòng khơi nước song song, cảm giác buồn ấy lại gửi trong vần điệu, trong những từ gợi hình ảnh mong manh càng làm tăng thêm mỗi lúc và trải dài mãi không thôi, càng làm thấm đẫm trong từng cảnh vật.
Giữa dòng sông mênh mông ấy, giữa những con sóng ấy xuất hiện một con thuyền mong manh
Con thuyền xuôi mái nước song song
Tưởng như sự xuất hiện của con thuyền sẽ làm cho không gian trở nên tươi vui hơn, nhưng ngược lại, con thuyền ấy lại khiến cho cảnh vật ở con sông này thêm đìu hiu. Cảnh thêm hiu hắt khi giữa dòng nước mênh mông ấy điểm thêm cành củi khô lạc từ đâu đến.
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Tác giả đã ngắm dòng sông từ dài, chiều rộng, rồi tới chiều sâu:
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Không gian như vụt lớn hơn. Trên bức tranh sông dài lại hiện lên bầu trời sâu thẳm: Sâu chót vót - sâu đã gợi lên cho người đọc ấn tượng thăm thẳm, hun hút khôn cùng mà lại sâu chót vót thì chiều cao càng vô tận. Câu thơ bảy chữ thì ba chữ vần bằng nằm giữa bốn vần trắc, dường như nhấn mạnh thêm không gian vô tận giữa mặt đất sâu thẳm và trời cao chót vót. Cái đẹp ở đây chính là tác giả đã đặt những hình ảnh ấy trong một thế giới hài hòa nghệ thuật tuyệt diệu nắng xuống - trời lên không gian ba chiều. Con người như trở nên nhỏ bé và có phần rợn ngợp trước cái bao la vĩnh hằng của vũ trụ, cái xa vắng của thời gian:
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Cũng như câu thơ:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Thiên nhiên hiện ra buồn nhưng cũng thật tráng lệ. Nét đặc trưng này của không gian đã được Đỗ Phủ miêu tả trong bài Thu hứng:
Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Lấy lại ý thơ người xưa, hình ảnh mây cao đùn núi bạc trong bài thơ gợi lên ấn tượng về sự mênh mông của vũ trụ. Nếu trên kia là sông nước Tràng giang điệp điệp, song song thì bây giờ là mây cao những lớp mây trăng cứ đùn lên trùng trùng điệp điệp phía chân trời. Huy Cận không viết đùn sóng bạc nghĩa là những áng mây như muôn ngàn con sóng tung bọt trắng mà viết đùn núi bạc khiến cho không gian vũ trụ không chỉ hiện lên bao la vô tận mà còn hùng vĩ nữa... thế nhưng cũng khác thơ xưa, cảnh vật mỗi lúc một bao la thì hồn người trong bài Tràng giang càng thêm cô độc, lạc loài. Thi nhân vốn sớm vương nỗi sầu thiên cổ mang mang hẳn không khỏi khao khát được giao cảm, tương thông với trời đất vô cùng.
Nếu không gian vũ trụ qua Tràng giang hiện lên với tất cả vẻ đẹp bao la kì vĩ mênh mông thì đối lập với nó không gian của cõi nhân thế lại bé nhỏ cô đơn lạc loài:
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Đó là hình ảnh của con thuyền côi cút và cành khô lạc loài giữa sông nước mênh mông. Vào những năm ba mươi, đây là một trong những câu thơ mới mẻ, bởi nó xuất hiện cái tầm thường, nhỏ nhoi vô nghĩa như một cành củi khô. Trong cảm thức xa vắng về không gian, đối với Huy Cận, con thuyền, cành khô chỉ gợi lên sự đơn lẻ thấm thía nỗi buồn chia lìa, lạc loài đang đón đợi. Thuyền về nước thì lại nghĩa là nghịch chiều nhau. Tuy chỉ có hai hướng thôi nhưng lai tạo nên mối sầu trăm ngả và cành cây chỉ là củi một cành khô. Nếu nói như Huy-gô ngôn ngữ cũng chỉ là sinh vật thì ở sinh vật ấy đang bơ vơ, đau xót, bất lực vì nước xô đẩy: Lạc mấy dòng nó hàm chứa cả cái gì đó côi cút, tan tác đến tội nghiệp. Với cách đặt từ một giữa hai số từ trăm và mấy trong những câu thơ khiến hình ảnh cõi nhân thế dường như càng nhỏ lại, bế tắc tột cùng. Tất cả như vây bủa lấy cảnh vật trong sự lạc lõng, đơn côi. Nỗi buồn đó càng như da diết mãi không thôi:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Vài dải đất giữa sông dài, vài ngọn gió hiu hiu nhưng không đủ làm sống động cảnh vật, và âm thanh cả tiếng làng xa vãn chợ chiều thì mơ hồ, mong manh lắm không làm bớt đi sự vắng lặng của cảnh. Bấy nhiêu hình ảnh dường như chỉ là những nét chấm phá, tô đậm thêm không gian cao rộng của vũ trụ mà thôi.
Thơ Đường tả Tràng giang chỉ qua một vài nét chấm phá đơn sơ, bình lặng hiền hòa, không đi sâu vào chi tiết:
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ
Huy Cận cũng miêu tả Tràng giang theo trường phái phương Đông truyền thống. Nhưng Tràng giang vẫn là một bài thơ hiện đại, không chỉ hiện đại ở hình ảnh, thi liệu mà còn ở cảm xúc của nhà thơ lãng mạn. Huy Cận đã soi chiếc linh hồn nhỏ của mình lên sông nước Tràng giang:
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Một loạt tính từ mênh mông, lặng lẽ đã gợi lên không khí vắng vẻ, u buồn. Nỗi buồn như càng được khắc sâu qua hình ảnh những cánh bèo dạt trôi nổi lênh đênh. Hình ảnh đó là ngẫu nhiên nhìn thấy hay vì thi nhân đã liên tưởng đến thân phận hoa trôi bèo dạt của những kiếp người chìm nổi long đong trong xã hội. Tâm trạng chung của lớp trẻ của những năm ba mươi là thế. Nhưng không phải vì vậy mà họ quên hết chất thơ, chất đẹp ở đời. Ngay cả khi phủ định tất cả không chuyến đò ngang, không cầu gợi chút niềm thân mật cũng chính là bộc lộ tấm lòng của thi nhân yêu cuộc sống, tha thiết mong mỏi niềm giao cảm. Không gian trần thế vì vậy qua cái nhìn của thi sĩ dù sầu tư lai láng nhưng vẫn lung linh có hồn. Tình càng sâu thì cảnh càng đẹp:
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Hình ảnh cánh chim đơn lẻ trong buổi chiều tà càng gợi lên những nỗi buồn xa vắng của lòng người. Nhưng cánh chim ấy lại chao xuống vì sức nặng của hoàng hôn nhịp nhàng với buổi chiều bóng xế. Hình ảnh đẹp vừa cổ điển vừa lãng mạn. Nếu như Nguyễn Du thấy Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha, Hàn Mặc Tử cũng nhận ra bóng xuân sang trên một giàn thiên lý thì Huy Cận, thi nhân cũng rất tinh tế nhận thấy bóng chiều trong một cánh chim nghiêng. Chính là nhà thơ đã phá lôgíc của nghệ thuật cũng vì vậy cánh chim hiện lên sinh động hơn, đẹp hơn và đặc biệt cũng buồn da diết trước cái nhỏ bé, cô đơn giữa vũ trụ bao la.
Từ những hình ảnh quen thuộc của cuộc sống thế gian, một cành củi khô, cồn nhỏ lơ thơ, con thuyền nhỏ, cánh chim... đã hắt vào tác phẩm vẻ tử biệt sinh ly, vẻ sầu bi của nó. Chỉ vài nét chấm phá thôi, Huy Cận đã khơi gợi cảm giác lẻ loi chia ly trong lòng người, trong cảnh vật. Đó cũng là tâm lý tự nhiên của con người, cảm giác nhỏ bé trước thiên địa vô thủy vô chung:
Ai người trước đã qua
Ai người sau đã tới
Nghĩ trời đất vô cùng
Một mình tuôn giọt lệ
Trần Tử Ngang
Cảnh tình ấy khiến thi nhân không thê bâng khuâng và thầm mong ước. Nó kết tinh thành tình quê hương tha thiết:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Âm hưởng Đường thi triền miên trong câu thơ. Lấy lại ý thơ của Thôi Hiệu:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhản sầu
Nhưng Huy Cận khác, trong buổi hoàng hôn ấy không hề có trên sông khói sóng, tạo điều kiện phản xạ gợi nhớ hương quan (cống làng- đường về quê cũ) như tác phẩm Hoàng Hạc lâu. Phải chăng chính cảm giác dợn dợn của chủ thể lãng mạn đã làm nảy sinh tâm lý nhớ nhà. Nhớ nhà, muốn được trở về có mặt giữa gia đình, quê cha là để hóa giải cảm giác dợn dợn bơ vơ của kẻ tha hương. Tình quê trong bài Tràng giang nhờ vậy da diết hơn, thường trực hơn. Nó không chỉ là những dòng ý nghĩ lộ thiên đơn giản mà xuất phát từ quy luật thầm kín tự đáy thẳm tâm linh của con người.
Tuy vậy, ý thơ không chỉ dừng lại ở một tình quê hương thuần túy. Phải chăng lòng quê dợn dợn vời con nước còn thể hiện nỗi niềm của một cái tôi cô độc, nhỏ bé trước vũ trự đang tìm về, giao hòa, nương tựa vào cái-ta rộng lớn hơn. Chất lãng mạn của bài Tràng giang là đấy, bên cạnh nỗi niềm cô đơn là nỗi niềm nhân thế:
Đạm đạm trường giang thủy
Du du viễn khách tình
Có thể nói Tràng giang là bài thơ chứa đầy không gian và tâm trạng. Là không gian vũ trụ, cảnh sắc bao la, vô tận mà cũng thật tráng lệ. Là không gian nhân thế, cảnh lại hiện lên cô đơn, lạc loài. Bao trùm lên bức tranh thiên nhiên là sự tĩnh lặng gần như tuyệt đối. Duy chỉ có tấm lòng nhà thơ đang thầm vọng trong xa thẳm:
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
Hai mươi năm sau, cũng đứng trước một không gian vô tận của đại dương lúc hoàng hôn, Huy Cận đã viết những vần thơ vui tươi khỏe khoắn:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm với gió khơi
Nhưng đó là sau này, khi Huy Cận đang viết Trời mỗi ngày một sáng. Còn ở đây, cảm giác vũ trụ ở Huy Cận là sự khắc khoải cô đơn khi đối diện với đất trời vô tận, vô cùng. Bài thơ Tràng giang vì thế mang nỗi buồn mênh mang sâu lắng trong giọng thơ vừa cổ điển vừa lãng mạn. Nỗi buồn của Huy Cận trước sau vẫn là nỗi buồn trong sáng, góp phần làm phong phú hồn người và làm nên vẻ đẹp riêng của bài thơ.