Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,Con thuyền xuôi mái nước song song,Thuyền về nước lợi sầu tràm ngả Củi một cành khô lạc mấy dòng.Lơ thơ cồn nhó gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống, tròi lên sầu chót vót;Sông dài, tròi rộng, bến cô liêu.Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng Mênh mông ...
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,Con thuyền xuôi mái nước song song,Thuyền về nước lợi sầu tràm ngả Củi một cành khô lạc mấy dòng.Lơ thơ cồn nhó gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống, tròi lên sầu chót vót;Sông dài, tròi rộng, bến cô liêu.Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng Mênh mông không một chuyến đò ngang Không cầu gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bớ xanh tiếp bãi vàng.Lóp lớp máy cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa,Lòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói ...
Khổ thơ đầu nói về sóng gợn, con thuyền và cành củi khô trôi trên dòng sông:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Tràng giang - sông dài và lớn, như Hoàng Hà, Trường Giang... ở đây là dòng sông Hồng Hà thân yêu, dòng sông đỏ nặng phù sa. Sóng gợn lăn tăn, lớp lớp buồn điệp điệp, như vỗ vào, thấm sâu vào lòng người bao ám ảnh. Con thuyền nhỏ bé, trôi xuôi dòng, buông mái chèo nước song song. Cặp từ láy: điệp điệp, song song gợi tả một nỗi buồn thấm thía, xa vắng và mơ hồ. Hình ảnh cành củi khô vừa mang ý nghĩa hiện thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Củi một cành khô nhỏ bé tầm thường, từ rừng xa xôi trôi về đã được đem vào thơ, tạo nên cái ý vị mới mẻ của Thơ mới. Nó biểu tượng cho một kiếp ngời phù du, bé nhỏ trôi nổi trên dòng đời vô định. Buồn thương thế, biết đi đâu, về đâu.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Phép đối được sử dụng sáng tạo, chỉ đối ý, đối hình mà vần thơ vẫn cân xứng, hài hòa. Con thuyền và cành củi khô đang cùng trôi nổi trên dòng tràng giang. Huy Cận nói đến nhiều vạn cổ sầu, buồn thiên thu, ở đây ông lại viết sầu trăm ngả. Cả cõi dương và cõi âm? sầu trăm ngả như tỏa rộng và phủ lên những kiếp người đau thương. Các số từ trong ba vần thơ sầu trăm ngả, củi một cành khô, lạc mấy dòng đã làm thấu cái ám ảnh về kiếp người nhỏ bé, hữu hạn, còn sự đau khổ, sầu thương thì to lớn, vô hạn.
Nỗi buồn vô hạn ấy lại được miêu tả qua một không gian bao la. Cái bé nhỏ tương phản với cái mênh mông, vô cùng, cồn thì nhỏ bé thưa thớt, buồn bã: Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu. vần lưng nhỏ - nhỏ, kết hợp với láy âm lơ thơ và đìu hiu, âm hưởng câu thơ như trĩu lòng người về một nỗi buồn hiu hắt, cô quạnh. Nghệ thuật sử dụng từ láy tài ba, gợi lên màu sắc cổ kính, dẫn hồn người đọc về với cổ thi: Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo - Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò (Chinh phụ ngâm). Lơ thơ tơ liễu buông mành... (Truyện Kiều).
Chợ chiều vốn đã buồn xao xác, vãn chợ chiều thì cái buồn xao xác xa vắng lại được nhân lên nhiều lần. Thế mà giờ đây cái âm thanh xao xác vãn chợ chiều từ một làng xa cũng không còn nữa. Từ đâu biểu lộ cái ngơ ngác của thi nhân với một nỗi buồn lẻ loi cô quạnh chứa chất trong lòng: Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Bầu trời và lòng sông là không gian hai chiều. Trời cao thăm thẳm in xuống lòng sông. Người ta thường nói cao chót vót, sâu thăm thẳm nhưng Huy Cận lại viết sâu chót vót để làm nổi bật hai tiểu đối: nắng xuống và trời lên kia, cái bao la, mênh mông đều rợn ngợp. Dòng sông thì dài, bầu trời thì rộng, và bến đò thì cô liêu xa vắng:
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu
Tràng giang là thi phẩm đại diện sáng chói lung linh nhất của Lửa thiêng. Nói đến Tràng giang là nói đến Lửa thiêng. Nói đến Lửa thiêng là nói đến nỗi buồn mênh mang, bao trùm không gian và thời gian, dường như ngầm chứa chất cái lớp sầu dưới đáy hồn nhân thế! (Xuân Diệu).
Câu hát bèo dạt mây trôi trong dân ca Quan họ từng gợi lên trong hồn ta nhiều cảm xúc mơ hồ. Khổ thứ ba, Huy Cận lấy cánh bèo trôi dạt trên dòng tràng giang làm biểu tượng cho sự hợp tan chia lìa trên dòng đời của những kiếp người truân chuyên, lưu lạc:
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Giữa cái bao la trời đất, sông nước hầu như không có một bóng dáng con người. Câu thơ phủ định bằng điệp từ không liên tiếp không một chuyến đò ngang, không cầu gợi chút niềm thân mật, chỉ có màu vàng của bãi tiếp nối với màu xanh của bờ vô tận. Cái buồn bã cô đơn của tâm trạng được diễn tả trong một không gian mênh mông và lặng lẽ.
Khổ thơ cuối nói về khoảnh khắc hoàng hôn. Hoàng hôn trong thơ cổ gắn liền với tình quê, cố hương:
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
(Qua Đèo Ngang)
Thôi Hiệu, nhà thơ lỗi lạc đời Đường, đứng trên lầu Hoàng Hạc nhìn khói sóng phủ mờ trên sông Hán Dương buổi hoàng hôn mà lòng thổn thức.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
(Tản Đà dịch)
Huy Cận lựa chọn một số thi liệu đầy chất thơ để diễn tả một tình quê: một cánh chim chiều, lớp lớp núi mây bạc. Không có khói sóng mà vẫn thương nhớ quê nhà da diết:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa,
Lòng quê dợn dợn vời non nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Câu thơ nên họa, đầy hình tượng và dạt dào cảm xúc. Hồn thơ Đường như thấm vào câu chữ. Ai đã từng xa quê, trong khoảnh khắc hoàng hôn mới thấy hết cái hay (đẹp mà buồn) trong những bài thơ nói về tình quê. Lòng quê: Song sa vò võ phương trời - Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng (Truyện Kiều)... Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ - Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn (Chiều hôm nhớ nhà) - Từ cảm nhận ấy, ta như bâng khuâng nhập hồn mình vào Tràng giang, lặng lẽ trầm ngâm nhìn theo vời con nước mà nhớ nhà, nhớ quê hương. Huy Cận không cần có khói sóng mà lòng quê vẫn dợn dợn, vẫn nhớ nhà. Rõ ràng tình quê trong Huy Cận không cần có khói sóng mà lòng quê vẫn dợn dợn, vẫn nhớ nhà, nhớ trong Huy Cận cháy bỏng và da diết vô cùng. Nói rằng thơ đích thực nâng đỡ lòng người, khơi gợi những gì đẹp đẽ nhất tiềm ẩn nơi đáy sâu tâm hồn người để vươn tới cái cao cả. Đọc Tràng giang ta cảm nhận sâu thêm chân lý nghệ thuật ấy.
Tràng giang là một trong những bài thơ hay nhất trong tập thơ Lửa thiêng. Nó là ngọn lửa thiêng liêng, ngọn lửa vĩnh cửu tỏa sáng một hồn thơ đẹp. Thi sĩ đã chọn thể thơ thất ngôn với bốn khổ thơ, như một bức họa tứ bình tuyệt tác. Một nỗi buồn thấm thía được diễn tả lớp lớp tầng tầng qua những vần thơ mỹ lệ, hàm súc. Tràng giang là bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc như Xuân Diệu đã nói. Có Tràng giang mới có đất nở hoa và những bài thơ cuộc đời đằm thắm nồng hậu... sau này. Đọc Tràng giang ta thêm yêu, thêm nhớ đất trời sông núi quê hương.