25/05/2018, 07:41

Tổng quan về dự án đầu tư của doanh nghiệp

Đầu tư theo nghĩa rộng nhất là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm duy trì tiềm lực sẵn có hoặc tạo ra tiềm lực lớn hơn cho sản xuất, kinh doanh dịch vụ và sinh hoạt đời sống. Đối với nền kinh tế hoạt động đầu tư là một hoạt động nhằm tạo ra và ...

Đầu tư theo nghĩa rộng nhất là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm duy trì tiềm lực sẵn có hoặc tạo ra tiềm lực lớn hơn cho sản xuất, kinh doanh dịch vụ và sinh hoạt đời sống. Đối với nền kinh tế hoạt động đầu tư là một hoạt động nhằm tạo ra và duy trì hoạt động của các cơ sở vật chất, kĩ thuật của nền kinh tế. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh, hoạt động đầu tư nhằm tăng thêm cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện có, là điều kiện để phát triển sản xuất kinh doanh. Hoạt động đầu tư được thể hiện tập trung qua việc thực hiện các dự án đầu tư.

Dự án đầu tư có thể được xem xét từ nhiều góc độ:

Về mặt hình thức: Dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một

cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được những kết quả và thực hiện những mục tiêu nhất định trong tương lai.

Về bản chất: Dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định.

Trên góc độ quản lý: Dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng vốn đầu tư, lao động để tạo ra các kết quả tài chính, kinh tế, xã hội trong thời gian dài.

Trên góc độ kế hoạch hoá: Dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội làm tiền đề cho các quyết định đầu tư và tài trợ.

Các dự án đầu tư là đối tượng cho vay trung và dài hạn chủ yếu của các ngân hàng. ở một quốc gia đang phát triển như Việt Nam các dự án đầu tư đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Các chủ dự án thường không đủ vốn để các doanh nghiệp thực hiện các dự án đầu tư mở rộng sản xuất, đầu tư theo chiều sâu và các dự án đầu tư mới phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Một dự án đầu tư có một số đặc trưng chủ yếu sau:

- Có mục tiêu, mục đích cụ thể

- Có một hình thức tổ chức xác định (một cơ quan cụ thể) để thực hiện dự án.

- Có nguồn lực để tiến hành hoạt động của dự án (vốn lao động, công nghệ...).

- Có một khoảng thời gian nhất định để thực hiện mục tiêu dự án.

Phân loại theo nguồn vốn: gồm

- Dự án đầu tư bằng nguồn vốn trong nước.

- Dự án đầu tư có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).

- Dự án đầu tư có nguồn vốn viện trợ của nước ngoài (ODA).

* Phân loại theo lĩnh vực đầu tư: gồm dự án sản xuất kinh doanh, dịch vụ, phát triển cơ sở hạ tầng, văn hoá xã hội...

* Phân loại theo thẩm quyền quyết định hoặc cấp giấy phép đầu tư:

- Đối với đầu tư trong nước chia thành 3 loại A, B, C.

Dự án nhóm A do thủ tướng chính phủ quyết định. Dự án nhóm B, C do Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang bộ, các cơ quan trực thuộc chính phủ, UBND cấp tỉnh (và thành phố trực thuộc TW) quyết định.

- Đối với đầu tư nước ngoài gồm 3 loại A, B và loại được phân cấp cho các địa phương.

* Phân theo hình thức thực hiện: dự án BTO, BOT, BT...

Việc phân loại dự án đầu tư theo cách nào cũng mang đến tính chất tương đối và quy ước. Một dự án đầu tư được xếp vào nhóm này hay nhóm khác là tuỳ thuộc vào mục đích, phạm vi và yêu cầu nghiên cứu xem xét.

Một dự án đầu tư có thể được đưa vào thực hiện phải trải qua những giai đoạn nhất định. Các giai đoạn kế tiếp nhau trong quá trình hình thành và vận hành dự án tạo thành chu kỳ của dự án đầu tư.

Một dự án đầu tư từ khi hình thành đến khi kết thúc thường trải qua các giai đoạn sau:

Giai đoạn 1: Chuẩn bị đầu tư bao gồm các hoạt động chính sau:

+ Nghiên cứu cơ hội đầu tư, sản phẩm của bước này là báo cáo kỹ thuật về cơ hội đầu tư.

+Nghiên cứu tiền khả thi: Lựa chọn một cách sơ bộ khả năng đầu tư chủ yếu từ cơ hội đầu tư. Sự chọn lựa căn cứ vào các vấn đề sau:

- Phù hợp với chính sách phát triển kinh tế của Đảng và nhà nước.

- Có thị trường tiêu thụ và khả năng cạnh tranh.

- Xem xét nguồn tài chính dự án.

- Phù hợp khả năng tài chính của chủ đầu tư.

+Nghiên cứu khả thi: Sản phẩm của bước này là báo cáo khả thi (hay luận chứng kinh tế kỹ thuật), đây là báo cáo đầy đủ nội dung cần phải làm của một dự án nói chung và dự án đầu tư nói riêng. theo quan điểm của người lập dự án đầu tư trên cơ sở phân tích các nhân tố ảnh hưởng. Đây là giai đoạn sàng lọc cuối cùng các quan điểm của người lập dự án và khẳng định tính khả thi của dự án và tạo cơ sở cho các nhà đầu tư ra quyết định đầu tư.

+ Thẩm quyền ra quyết định đầu tư:

Sau khi dự án đã được chuẩn bị kỹ càng, có thể tiến hành thẩm định một cách độc lập, xem xét toàn bộ các mặt của dự án để đánh giá xem dự án có thích hợp và khả thi hay không trước khi bỏ ra một chi phí lớn. Nếu qua thẩm định cho thấy dự án mang tính khả thi cao thì có thể bắt đầu đầu tư vào dự án.

Giai đoạn 2: Giai đoạn thực hiện đầu tư.

Đây là giai đoạn cụ thể hoá nguồn hình thành vốn đầu tư và triển khai thực hiện dự án đầu tư. Giai đoạn này gồm những công việc sau:

+ Khảo sát, thiết kế, dự toán.

+ Đấu thầu ký hợp đồng giao thầu.

+ Thi công xây lắp công trình

+ Chạy thử và bàn giao.

Giai đoạn 3: Vận hành và khai thác.

Đây là giai đoạn đưa công trình bào hoạt động để chính thức đưa sản phẩm ra tiêu dùng trên thị trường

Đánh giá dự án:

Đây là giai đoạn đánh giá việc thực hiện dự án đầu tư và các ảnh hưởng của nó. Các nhà phân tích sẽ xem xét lại một cách có hệ thống các yếu tố làm nên thành công hay thất bại của dự án để áp dụng tốt hơn vào các dự án trong tương lai. Đánh giá không chỉ được tiến hành khi dự án kết thúc, mà nó còn là công cụ quản lý dự án khi nó đang hoạt động, có thể tiến hành đánh giá một vài lần trong suốt chu kỳ của dự án.

Trong các giai đoạn trên thì giai đoạn 1 có ý nghĩa và vai trò cực kỳ quan trọng, nó là cơ sở cho việc triển khai dự án ở các giai đoạn sau, quyết định thành công hay thất bại của dự án. Trong giai đoạn này, thẩm định dự án được xem như một yêu cầu không thể thiếu và là cơ sở để ra quyết định đầu tư.

0