27/05/2018, 17:01

Tôm hùm đỏ

Tên tiếng anh: Longlegged Spiny Lobster Tên khoa học: Panulirus longipes Tên gọi khác: Panulirus longipes longipes Phân ...

Tên tiếng anh: Longlegged Spiny Lobster
Tên khoa học: Panulirus longipes
Tên gọi khác: Panulirus longipes longipes
Phân loại
Ngành:
Arthropoda
Lớp:
Malacostraca
Bộ:
Decapoda
Họ:
Palinuridae
Giống:
Panulirus
Loài: Panulirus longipesA. Milne-Edwards, 1868
Đặc điểm

Tôm cỡ trung bình, lớn nhất khoảng 25 cm (0,9 - 1 kg/con), con cái tham gia sinh sản lần đầu có kích thước khoảng 15cm; vỏ láng màu đỏ nâu hay đỏ tím có những chấm tròn nhỏ hoặc đốm màu trắng hay đỏ cam. Phiến gốc râu I có 2 gai lớn ở phía trước và một số gai gai nhỏ ở phía sau; chân hàm III có nhánh ngoài; vỏ lưng các đốt bụng II-IV có 1 rãnh ngang liên tục và gờ trước của rãnh nguyên không chia thùy, rãnh ngang trên đốt II nối liền với rãnh ở cạnh trước tấm bên cùng đốt; tấm bên không có răng nhỏ ở cạnh trước.

âu trùng tôm hùm đỏ
Ấu trùng Panulirus longipes

Phân bố

Loài tôm hùm đỏ, còn được biết đến là tôm hùm Louisiana có nguồn gốc ở Hoa Kỳ và Mexico, lần đầu được biết đến ở các hồ Hampstead vào năm 1991, hiện nay chúng đã nhân lên gấp nhiều lần với tỷ lệ rất lớn đến mức hiện giờ có khoảng 5.000 con được cho là đang chiếm lĩnh các hồ ở Bắc Luân Đôn.

Ở bắc Âu Châu, loài này chỉ duy trì số lượng mà không phát triển, trong khi ở phía nam, nó nhân lên nhiều lần và chiếm lĩnh nơi sống mới từ loài tôm hùm bản địa.

Trong nước: Từ Quảng Bình đến Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận.

Thế giới: Vùng Ấn Độ - Tây Thái Bình Dương từ Nhật Bản và Pôlynêxia đến Đông Phi.

Tập tính

thường sống quanh các đảo, trong các rạn san hô và các vùng phụ cận có độ trong cao và sóng đập. Chúng thường sống riêng lẻ và hoạt động mạnh về ban đêm. Hàng năm từ tháng 12 đến tháng 6 năm sau, tôm con (chiều dài vỏ đầu ngực 7-18 mm) thường tập trung ở các ghềnh đá ven bờ và ven các đảo.

Sinh sản
Hiện trạng

Trước năm 1975, tôm cỡ 0.3 - 0.5 kg/con rất phổ biến quanh các đảo, là một trong những đối tượng tôm hùm có sản lượng khai thác cao. Sau năm 1975, đặc biệt từ năm 1990 tới nay, do nhu cầu xuất khẩu mạnh, lượng khai thác hàng năm tăng cao, làm số lượng giảm rõ rệt, có thể tới 50%. Ngoài ra, việc dùng chất nổ để đánh bắt và phá hủy các rạn san hô đã thu hẹp nơi cư trú, có thể hơn 20%.

Phân hạng: EN A1c,d B2b+3d.

Đã đưa vào Sách Đỏ Việt Nam (1992-2000). Cần giảm cường độ khai thác, khai khác vào mùa không sinh sản, nghiêm cấm đánh bắt mìn và phá hủy các rạn san hô.

Đây là một trong những loại hải sản nổi tiếng ở những vùng biển Việt Nam.  được chế biến thành nhiều món ngon: nướng sả, hấp, nấu cháo, sốt bơ hay nướng phô mai.

0