Tổ chức thương mại thế giới (WTO)
thành lập ngày 01-01-1995 là kết quả của vòng đàm phán U-ru-goay kéo dài trong suốt tám năm. Đây là tổ chức quốc tế duy nhất quản lý luật lệ giữa các quốc gia trong thương mại quốc tế. Nó được thừa kế và mở rộng phạm vi điều kiện thương mại ...
thành lập ngày 01-01-1995 là kết quả của vòng đàm phán U-ru-goay kéo dài trong suốt tám năm. Đây là tổ chức quốc tế duy nhất quản lý luật lệ giữa các quốc gia trong thương mại quốc tế. Nó được thừa kế và mở rộng phạm vi điều kiện thương mại quốc tế của tổ chức tiền thân là Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). Sự ra đời của tổ chức WTO đã góp phần tiếp tục thể chế hoá vầ thiết lập trật tự mới của hệ thống thương mại đa phương của thế giới.
WTO có một cơ cấu tổ chức hoàn thiện gồm 3 cấp: các cơ quan lãnh đạo chính trị (decision- making power) bao gồm Hội nghị Bộ trưởng, Đại hội đồng WTO, Cơ quan giải quyết tranh chấp và Cơ quan kiểm điểm chính sách thương mại; các cơ quan thi hành và giám sát việc thực hiện các hiệp định thương mại đa phương, bao gồm Hội đồng Thương mại hàng hoá, Hội đồng Thương mại dịch vụ và Hội đồng về các khía cạnh liên quan đến Thương mại của quyền sở hữu trí tuệ.
- Hội nghị Bộ trưởng WTO: là cơ quan lãnh đạo chính trị cao nhất của WTO, họp ít nhất 2 năm 1 lần, thành viên là đại diện cấp Bộ trưởng của tất cả các thành viên. Hội nghị Bộ trưởng WTO cũng có quyền quyết định về tất cả các vấn đề trong khuôn khổ bất kỳ một hiệp định đa phương nào của WTO.
- Đại hội đồng WTO: Trong thời gian giữa các khoá họp của Hội nghị Bộ trưởng WTO, các chức năng của Hội nghị Bộ trưởng WTO do Đại hội đồng (General Council) đảm nhiệm. Đại hội đồng có quyền thành lập các uỷ ban giúp việc và báo cáo trực tiếp lên Đại hội đồng là: Uỷ ban về thương mại và phát triển; Uỷ ban về các hạn chế cán cân thanh toán; Uỷ ban về ngân sách, tài chính và quản trị; Uỷ ban về các hiệp định thương mại khu vực. Đại hội đồng WTO cũng đồng thời là "Cơ quan giải quyết tranh chấp" (DSB - Dispute Settlement Body) khi thực hiện chức năng giải quyết tranh chấp và là "Cơ quan kiểm điểm chính sách thương mại" (TPRB - Trade Policy Review Body) khi thực hiện chức năng kiểm điểm chính sách thương mại.
- Các Hội đồng giám sát việc thực thi các hiệp định thương mại đa phương WTO có 3 Hội đồng (Council) được thành lập để giám sát việc thực thi 3 hiệp định thương mại đa phương là Hội đồng GATT, Hội đồng GATS và Hội đồng TRIPS.
- Tổng giám đốc và Ban Thư ký WTO
Khác với GATT 1947, WTO có một Ban Thư ký rất quy mô, bao gồm khoảng 500 viên chức và nhân viên thuộc biên chế chính thức của WTO. Đứng đầu Ban Thư ký WTO là Tổng giám đốc WTO. Tổng giám đốc WTO Bộ trưởng bổ nhiệm với nhiệm kỳ 4 năm. Ngoài vai trò điều hành, Tổng giám đốc của WTO còn có một vai trò chính trị rất quan trọng trong hệ thống thương mại đa phương. Chính vì vậy mà việc lựa chọn các ứng cử viên vào chức vụ này luôn là một cuộc chạy đua ác liệt giữa các nhân vật chính trị quan trọng, cấp bộ trưởng, Phó Thủ tướng hoặc Tổng thống (Trong số các ứng cử viên vào chức vụ Tổng giám đốc đầu tiên của WTO có ông Salinas, cựu Tổng thống Mê-hi-cô).
+ Để có thể tham gia vào tổ chức này thì các quốc gia phải thoả mãn các điều kiện như: độc lập về chính sách thương mại quốc tế, công khai rõ ràng các số liệu kinh tế, quốc gia đó phải có nền kinh tế thị trường và có nguyện vọng tham gia trở thành thành viên và có khả năng đáp ứng yêu cầu trong việc thực hiện các hiệp định trong WTO.
+ Thủ tục gia nhập WTO:
- Hội đồng nội các lập uỷ ban xét duyệt giao cho nước muốn tham gia dự một danh mục các câu hỏi và dự thảo nghị định gia nhập WTO.
- Trên cơ sở báo cáo trả lời câu hỏi, chủ tịch uỷ ban sẽ triệu tập các thành viên và nước muốn tham dự để bàn bạc, tìm hiểu và đặt thêm các câu hỏi (nếu có).
- Nước muốn tham gia đàm phán về điều kiện gia nhập và ưu đãi thuế quan với các nước thành viên. Các nước muốn tham gia nộp đơn lên tổng giám đốc WTO. Uỷ ban xét duyệt đệ trình lên hội đồng chung để phê duyệt. Quốc gia nộp đơn trở thành thành viên khi được sụ đồng ý của ít nhất 2/3 số thành viên hiện có và được quốc hội nước đó thông qua.
+ Lợi thế của các nước khi là thành viên của WTO
WTO với tư cách là một tổ chức quốc tế của tất cả các nước trên thế giới vói mục đích là nâng cao mức sống của nhân đân thành viên các nước, sử dụng một cách có hiệu quả nhất các nguồn lực của thế giới, đảm bảo việc làm và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thương mại.
- Các thành viên khi tham gia vào tổ chức này sẽ được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN) quy chế đối xử quốc gia (NT), mức thuế quan đặc biệt đối với từng thành viên khi xuất nhập khẩu. Như vậy, các quốc gia này có thể chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế, thúc đẩy tăng trưởng hành hoá, dịch vụ. Đối với các nước đang phát triển được chế độ ưu đãi do WTO quy định, được phép bảo hộ những ngành nghề còn non yếu cao hơn các nước đang phát triển.
- Mặt khác, các thành viên của tổ chức còn được giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp thương mại trong khuôn khổ của hệ thống thương mại đa phương, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế, đảm bảo cho các nước đang phát triển và các nước kém phát triển nhất được hưởng những lợi ích thực sự từ sự tăng trưởng của thương mại quốc tế phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế của các nước này và khuyến khích các nước ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới.
- Hơn nữa, WTO có chức năng là cơ chế kiểm điểm các chính sách thương mại của các nước thành viên để đảm bảo thực hiện mục tiêu thúc đẩy tự do hoá thương mại, tuân thủ các quy định của WTO và quy định này được áp dụng đối với tất cả các thành viên. Điều này giúp cho các thành viên của tổ chức thuận lợi cho việc thoả thuận thương mại, giao lưu buôn bán, thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ, du lịch và đem lại lợi ích cho đông đảo người dân được hưởng những thành quả của tiến bộ khoa học công nghệ với giá rẻ nhất.
Trung Quốc là một đất nước có diện tích 9.597.000 km2, đứng thứ tư sau Liên Bang Nga (17.075.000 km2), Canada (9.971.000 km2) và Mỹ (9.629.000 km2), gấp 30 lần so với diện tích nước ta. Dân số giữa năm 2000 khoảng 2.264,5 triệu người, đông nhất thế giới, chiếm 20,8% dân số toàn cầu, gấp hơn 15 lần dân số Việt Nam. Tỷ lệ dân số thành thị năm 2000 của Trung Quốc là 31% cao hơn tỷ lệ 23,5% của Việt Nam. Tỷ lệ lao động nông nghiệp năm 1998 của Trung Quốc là 47,5% thấp hơn tỷ lệ 70% của Việt Nam.
Sau 20 năm cải cách kinh tế, ngoại thương của Trung Quốc đã vươn lên từ vị trí thứ 32 lên vị trí thứ 7 trên thế giới, kim ngạch xuất khẩu tăng 10 lần. Năm 2001 vừa qua, tổng thu nhập quốc dân (GNP) của Trung Quốc đạt 1.190 tỷ USD. Theo số liệu của hải quan Trung Quốc, riêng năm 2000, kim ngạch xuất khẩu ngoại thương của Trung Quốc đạt 474 tỷ USD với mức xuất siêu 24 tỷ USD. Trung Quốc cũng đứng đầu về xuất khẩu trong nhóm các nước đang phát triển. Khoảng một nửa kim ngạch được thực hiện dưới hình thức “ thầu lại” nghĩa là Trung Quốc mua nguyên vật liệu để chế biến rồi tái xuất. Trong 20 năm qua, GDP của Trung Quốc đã tăng 16 lần. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Trung Quốc năm 1999 đạt 8.205,4 tỷ NDT, tính theo tỷ giá hối đoái bình quân (được duy trì trong 5 năm liền ) là 8,28 NDT/USD thì GDP của Trung Quốc đạt xấp xỉ 1.000 USD, gấp hơn 35 lần của Việt Nam (28,54 tỷ USD).
Trung Quốc là quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất Châu A', quốc gia có thị trường nội địa lớn nhất thế giới. Năm 2000, thu nhập hàng năm trên một đầu người của Trung Quốc chỉ đạt 850 USD so với 9.000 USD của Hàn Quốc và 35.000 USD của Nhật Bản. Trung Quốc có tương đối nhiều lợi thế: lao động dồi dào, quy mô dân số lớn cho nên nhu cầu còn rất lớn; tài nguyên phong phú, đa dạng, có chế độ chính trị ổn định; có hệ thống chính sách theo hướng cởi mở.
Từ đầu những năm 90, Trung Quốc đã chiếm vị trí thứ hai trên thế giới về thu hút đầu tư nước ngoài, chỉ sau Mỹ. Trung Quốc là nơi thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài, bình quân thời kỳ 1995-2000 lên đến 41 tỷ USD/năm, chiếm 70% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Châu Âu, Bắc Mỹ vào Đông Á. Trung Quốc cũng là nước có tỷ lệ vốn đầu tư phát triển so với GDP khá cao. Cộng kim ngạch xuất khẩu với đầu tư nước ngoài, Trung Quốc trở thành nước đứng thứ hai thế giới về dự trữ ngoại tệ (sau Nhật Bản) với hơn 165 tỷ USD.
Theo cơ quan thống kê, trong nửa đầu năm nay, nền kinh tế Trung Quốc tăng 7,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Ông Yiping Huang - một chuyên gia kinh tế của Salomon Smith Barney (tập đoàn cung cấp các dịch vụ quản lý tài sản, đầu tư ngân hàng và môi giới chứng khoán toàn cầu), tại Hồng Kông cho biết: "Việc đầu tư trực tiếp tăng cùng với khả năng gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong tương lai gần cũng có thể giúp tăng trưởng kinh tế tăng thêm 1%. Khi Trung Quốc gia nhập WTO sẽ giúp cho các nhà xuất khẩu lớn của Trung Quốc thâm nhập thị trường nước ngoài. Nó cũng sẽ cho phép nhiều công ty nước ngoài giành được lợi thế ”.
Với việc thành công trong cuộc đua giành quyền đăng cai Olympic 2008 sẽ giúp tỷ lệ tăng trưởng kinh tế Trung Quốc tăng thêm từ 0,3% đến 0,4%. Đây là một dấu hiệu đáng mừng về tăng trưởng của nền kinh tế Trung Quốc. Để thúc đẩy tiêu dùng nội địa, Chính phủ Trung Quốc hiện đang tăng chi tiêu xây dựng các công trình công cộng và tăng lương cho các viên chức.. Nhà nước có kế hoạch phát hành 150 tỷ NDT trái phiếu nội địa trong năm nay cho các quỹ việc làm công cộng, hy vọng tạo được nhiều việc làm và duy trì chi tiêu xã hội
Những thuận lợi đối với Trung Quốc khi gia nhập WTO :
Tự do hoá thương mại và đầu tư, về lý thuyết, luôn là động lực phát triển cho bất kỳ nền kinh tế nào tham gia vào quá trình đó. Nền kinh tế Trung Quốc không phải là một ngoại lệ. Mặc dù cần có thời gian để có những tính toán định lượng chính xác những lợi ích và thách thức do việc trở thành thành viên WTO đem lại, song hiện thời, bằng quan sát thực chứng đã có thể thấy những ảnh hưởng lớn trên cả cấp độ vĩ mô và vi mô.
- Trung Quốc sẽ được tham gia quy tắc mậu dịch quốc tế và được hưởng quy chế tối huệ quốc một cách rộng rãi. Sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO có thể làm giảm sự hạn chế về tính kỳ thị đơn phương của các nước phương tây góp phần cải thiện môi trường bên ngoài và xúc tiến quan hệ mậu dịch. Có thể thâm nhập tham gia phân công quốc tế, điều này có lợi cho quốc tế hoá sản phẩm.
- Lợi ích tiếp theo mà Trung Quốc thu được từ việc gia nhập WTO là nâng cao hiệu quả nền kinh tế trên cơ sở hình thành một môi trường cạnh tranh bình đẳng. Một thị trường kinh doanh lành mạnh, không phân biệt các chủ thể kinh tế tham gia vào đó là động lực khiến cho nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng nâng cao khả năng cạnh tranh và phát huy tối đa những lợi thế so sánh mà Trung Quốc vốn có.
- Ba là, xét trên góc độ ngắn hạn và trung hạn, tự do hoá thương mại và đầu tư sẽ góp phần đẩy nhanh thêm tiến trình tăng trưởng của nền kinh tế Trung Quốc. Tự do hoá thương mại, cũng có nghĩa là giảm thuế nhập khẩu và các hạn chế nhập khẩu khác khiến giá cả trên thị trường nội địa sẽ rẻ hơn, người tiêu dùng Trung Quốc sẽ có lợi và kích thích nhu cầu đầu tư và nhu cầu trong nước. Hệ quả là, nhu cầu đầu tư và tiêu dùng sẽ kích thích sản xuất trong nước phát triển.
- Một thuận lợi khác của việc gia nhập này là nền kinh tế Trung Quốc sẽ ít bị tổn thương, bị tấn công bởi những hành vi bảo vệ mậu dịch hoặc trừng phạt kinh tế bởi các quốc gia khác trong trưòng hợp có tranh chấp kinh tế, thương mại hay những lý do chính trị nào đó.
- Việc gia nhập và các cam kết thực hiện các nguyên tắc tự do hoá thương mại, Trung Quốc đã khẳng định đường lối nhất quán trong công cuộc cải cách mở cửa, tiến thêm một bước mới về chất trong việc hoàn thiện môi trường đầu tư kinh doanh của mình.
Khó khăn đối với Trung Quốc khi gia nhập WTO :
Tuy vậy, không thể phủ nhận được rằng gia nhập WTO, cũng như những nền kinh tế đang phát triển khác Trung Quốc sẽ gặp phải những bất lợi nhất định.
- Khi gia nhập, toàn bộ thể chế kinh tế sẽ có sự chuyển đổi về căn bản. Mặc dù 20 năm qua là bước chuẩn bị khá lớn, nhưng những chuẩn bị đó chủ yếu tập trung vào những lĩnh vực có liên quan đến hoạt động kinh tế đối ngoại, phục vụ cho chiến lược kinh tế hướng vào xuất khẩu. Trung Quốc sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi đối mặt với các đối thủ cạnh tranh hùng mạnh khác. Chẳng hạn, nếu khuôn khổ pháp lý của Trung Quốc không phù hợp với khuôn khổ pháp lý quốc tế, các doanh nghiệp của Trung Quốc sẽ không được bảo vệ khi xảy ra tranh chấp thương mại.
- Thách thức lớn tiếp theo là những vấn đề nảy sinh từ việc thúc đẩy nhanh chóng tiến trình cải cách khu vực kinh tế quốc doanh, chủ yếu là trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Cải cách sẽ khiến cho tốc độ tăng trưởng trong công nghiệp chậm lại trong một thời gian, một phần đầu tư do nhà nước vào khu vực này giảm, phần nữa là những xí nghiệp yếu kém sẽ phải thu hẹp sản xuất, đóng cửa hoặc chuyển đổi sang những lĩnh vực kinh doanh mới.
- Những thách thức trong nông nghiệp thậm chí có thể còn nghiêm trọng hơn trong công nghiệp. Khi các rào cản thương mại bị loại bỏ hoặc giảm thiểu, nông sản nhập khẩu từ Mỹ và Châu Âu với giá thấp hơn sẽ khiến nền kinh tế nông thôn Trung Quốc bị một sức ép rất lớn, hàng triệu hộ nông dân với tư cách là các đơn vị kinh doanh nông nghiệp có thể bị phá sản. Số người này sẽ đi chuyển về các thành phố công nghiệp, càng gia tăng sức ép lên vấn đề thất nghiệp. Chính phủ sẽ phải đối phó với các vấn đề xã hội gay gắt mà hiện có chưa thể đánh giá một cách đầy đủ.
Đối với Việt Nam, việc Trung Quốc gia nhập WTO có ảnh hưởng nhất định đến tình hình phát triển kinh tế của kinh tế Việt Nam, trong đó có vấn đề xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, cũng như quan hệ song phương giữa hai nước:
- Một là, về quan hệ song phương giữa hai nước. Từ khi bình thường hoá quan hệ năm 1991 đến nay, mối quan hệ Việt - Trung đã có bước phát triển vượt bậc. Nhìn về cơ cấu hàng hoá xuất khẩu trong thời gian qua giữa hai nước cho thấy: Việt Nam chủ yếu xuất khẩu nguyên vật liệu, nông, lâm, hải sản chưa qua chế biến; còn chưa nhập khẩu chủ yếu là máy móc thiết bị, hàng tiêu dùng và hàng hoá đã gia công chế biến. Cơ cấu hàng hoá nói trên có tính bổ sung cho nhau tương đối rõ nét. Vì vậy, sau khi Trung Quốc gia nhập WTO, tính bổ sung trên vẫn còn duy trì trong một thời gian. Tuy nhiên, do Việt Nam chưa được hưởng những ưu đãi của nước thành viên nên nếu muốn tăng tổng kim ngạch buôn bán hai chiều lên gấp đôi trong thời gian 2001 - 2005 thì các ngành hữu quan hai nước cần phải có chính sách, biện pháp hữu hiệu hơn mới thực hiện được. Điều đáng chú ý ở đây là ngoài buôn bán chính ngạch, giữa hai nước còn có buôn bán tiểu ngạch biên giới, tỷ lệ giữa hai hình thức này cũng dao động trong khoảng 50% - 60%. Với đường biên giới đất liền dài 1350 km và đường biên giới biển, đi lại dễ dàng, nếu không có sự quản lý tốt thì hàng hoá phương Tây với ưu thế về chất lượng và giá cả một khi đã thâm nhập thị trường Trung Quốc sẽ rất dễ dàng tràn qua biên giới vào Việt Nam, gây nhiều khó khăn cho các nhà sản xuất Việt Nam.
- Hai là, ảnh hưởng đến lĩnh vực xuất khẩu của Việt Nam. Theo các chuyên gia, hiện tại cả Việt Nam và Trung Quốc cùng có một số mặt hàng xuất khẩu chủ chốt được tiêu thụ tại các thị trường Mỹ, Nhật, EU, ASEAN v.v..như: hàng dệt may, giầy dép, gốm sứ và hàng điện tử .. Đây là những mặt hàng Trung Quốc chiếm ưu thế cả về khối lượng lẫn thị phần, còn hàng Việt Nam có điểm yếu là giá thành cao do giá đầu vào cao. Khi Trung Quốc gia nhập WTO, nước này sẽ được hưởng ưu đãi thuế quan, hạn ngạch xuất khẩu, nhất là tại các thị trường Mỹ, Nhật, EU, thì những mặt hàng cùng chủng loại của Việt Nam sẽ rất khó cạnh tranh với hàng hoá Trung Quốc. Đó là chưa tính đến việc khi đồng Nhân Dân Tệ (NDT) nếu được tự do chuyển đổi, tỷ giá hối đoái của nó sẽ thường xuyên dao động, làm cho sức cạnh tranh của hàng hoá Trung Quốc càng được nâng cao ở trên thị trường thế giới.
- Ba là, ảnh hưởng trong lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài. Hơn 20 năm qua, nhờ thực hiện chính sách cải cách mở cửa, Trung Quốc đã trở thành quốc gia lớn nhất trong số các nước đang phát triển và thứ hai trên thế giới trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Khi gia nhập WTO, môi trường đầu tư của Trung Quốc cả về “môi trường cứng” (cơ sở hạ tầng) lẫn “môi trường mềm” (cơ chế chính sách) sẽ được cải thiện hơn nữa, Trung Quốc sẽ trở thành một “điểm nóng ” thu hút đầu tư nước ngoài của thế giới. Đây cũng là một cơ hội tốt cho các nhà đầu tư của một số nước Đông Nam Á khi đến đầu tư tại Trung Quốc. Khi các nhà đầu tư nước ngoài đến Trung Quốc nhiều hơn, thị trường Trung Quốc cũng sẽ cần nhiều hơn các nguyên liệu cho sản xuất. Như vậy, các nước Đông Nam Á có điều kiện xuất khẩu nhiều hơn các nguyên liệu như xăng dầu, than đá, cao su.. cho thị trường khổng lồ này.Nhưng mặt khác, cũng cần thấy rằng sức “hấp dẫn” của Trung Quốc cũng sẽ tao nên một sự cạnh tranh đối với các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.