24/05/2018, 14:07

Tình hình xuất khấu của ngành xuất khẩu trong những năm qua.

0 Sau những lao đao do mất thị trường truyền thống những năm 1989-1990, khắc phục những khó khăn trong đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, tìm kiếm thị trường, xây dựng mặt ...

0

Sau những lao đao do mất thị trường truyền thống những năm 1989-1990, khắc phục những khó khăn trong đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, tìm kiếm thị trường, xây dựng mặt hàng... từ những năm 1995 trở lại đây, xuất khẩu sản phẩm giầy dép của Việt Nam có tốc độ tăng trưởng tương đối cao. Đặc điểm của nghành sản xuất giầy dép là đầu tư ít vốn, thu hồi vốn nhanh và sử dụng nhiều lao động. Tận dụng được lợi thế của Việt Nam là nước có lực lượng lao động dồi dào, cùng với xu hướng chuyển dịch sản xuất giầy dép từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển, nghành sản xuất giầy dép của Việt Nam ngày càng phát triển và trở thành một trong mười mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta trong mấy năm qua. Kim nghạch xuất khẩu của nghành tăng lên rất nhanh, năm 1993 kim nghạch xuất khẩu của nghành là 118,4 triệu USD, 7 năm sau kim nghạch tăng lên 12,5 lần, năm 2000 kim nghạch xuất khẩu của nghành là 1,468 tỷ USD đứng thứ 3 sau dầu thô và may mặc, sang năm 2001 con số này tăng lên 1,698 tỷ USD, điều này cho thấy nghành công nghiệp da giầy của Việt Nam có cơ hội rất lớn để phát triển trong thời gian tới.

Sản phẩm giầy dép xuất khẩu của Việt Nam bao gồm giầy thể thao các loại, giầy vải, giầy nữ bằng da và giả da, dép đi trong nhà, sandal...chất lượng tốt mang nhãn hiệu của các hãng nổi tiếng như: Nike, Reebok, Adidas, Bata...

Bảng 1:Cơ cấu sản phẩm giầy dép xuất khẩu của Việt Nam 1998-2001.

Đơn vị số lượng:1000 đôi

Đơn sị trị giá: 1000USD

1998 1999 2000 2001
Số lượng Giá Trị Số lượng Giá Trị Số lượng Giá Trị Số lượng Giá Trị
Giầy thể thao 87714 668000 102734 879900 116000 892640 129045 993023
GIầy nữ 34377 143261 39201 182032 54710 231840 60235 279366
Giầy vải 30528 112423 33095 133372 310670 155710 35212 175804
Các loại khác 32933 770712 46171 111934 75200 187835 80231 249817
Tổng số 185552 1694396 221201 1307238 2769600 1468025 304723 1698011

Theo bảng 1, ta thấy trong các loại giầy dép xuất khẩu, giầy thể thao luôn là mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất, năm 1998 chiếm 65,75% năm 1999 chiếm 65,94% năm 2000 chiếm khoảng 60,8% tổng kim nghạch xuất khẩu. Tuy nhiên đến năm 2001 tỷ trọng của giầy thể thao trong tổng kim nghạch hơi bị chững lại, chiếm khoảng 58,5%. Tiếp đến là giầy nữ năm 1998 chiếm khoảng 14,31%, năm 1999 chiếm khoảng 13,65% năm 2000 chiếm khoảng 15,8% tổng kim nghạch xuất khẩu, sang năm 2001 con số này nhích lên một chút đạt khoảng 16,45%. Tỷ lệ giầy vải xuất khẩu cũng khá cao, năm 1998 chiếm khoảng 11,23%, năm 1999 chiếm khoảng 10%, năm 2000 chiếm khoảng 10,6% tổng kim nghạch, sang năm 2001 tỷ lên này giảm xuống nhưng không đáng kể đạt 10,35%. Nhìn chung, cơ cấu sản phẩm xuất khẩu khá đa dạng phong phú về chủng loại sản phẩm và các nhóm mặt hàng là tương đối ổn định.

Năm 2000, tình hình kinh tế chung các nước trong khu vực và trên thế giới ổn định hơn. Riêng nghành giầy da có nhiều biến động về thị trường, về đầu tư, về nhu cầu tiêu dùng, về đơn giá, về cơ cấu mặt hàng...hầu hết các doanh nghiệp trong nghành da giầy Việt Nam phải đối mặt với việc các đơn hàng bị cắt giảm, tình hình sản xuất kinh doanh bị chững lại. Tuy nhiên, với sự nỗ lực cố gắng toàn nghành đã đạt kim nghạch xuất khẩu là 1,468 tỷ USD tăng 9,9% so với năm 1999. Về sản lượng ước đạt 276,6 triệu đôi giầy dép các loại.Trong đó, giầy vải giảm mạnh (khoảng trên 30%) vì không có đơn hàng. Mặt hàng giầy thể thao và giầy nữ có đơn hàng ổn định hơn xong không gia tăng nhiều như năm 1999. Sang năm 2001, tình hình xuất khẩu của nghành có vẻ có sự chuyển biến tích cực, tuy mặt hàng giầy thể thao không chiếm tỷ trọng lớn như những năm trước nữa nhưng tổng kim nghạch của nghành vẫn tăng lên và đạt con số 1,698 tỷ USD.

Những biến động ảnh hưởng tới tình hình xuất khẩu cũng như sản xuất kinh doanh của toàn nghành trong năm 2000-2001.

Một là, sự mất giá của đồng Euro trong một thời gian dài (từ đầu quý 2 đến hết năm 2000) kèm theo là nhu cầu tiêu dùng của thị trường này giảm đã làm giảm các đơn hàng từ thị trường này, đặc biệt là giầy vải. Bên cạnh việc cắt giảm các đơn hàng các đối tác còn ép giảm giá mua và giá nhân công nhằm hạn chế rủi ro trong kinh doanh của họ. Điều này làm ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nghành.

Hai là, lợi thế về nhân công rẻ ngày càng mất đi. Trong đó có nhiều đơn hàng do phía đối tác ép nhập khẩu mũ giầy từ Trung Quốc, một phần do tiến độ giao hàng, một phần do giá nhân công ở Trung Quốc rẻ lại trong điều kiện nguyên liệu giầy của họ có sẵn tại chỗ nên giá thành của họ rẻ hơn nhiều so với nước ta. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp có sản xuất mũ giầy. Trung Quốc đang ngày càng trở thành đối thủ cạnh tranh lớn đặc biệt khi Trung Quốc gia nhập WTO với các lợi thế về điều kiện sản xuất và giá nhân công rẻ.

Ngoài ra, nghành sản xuất giầy dép xuất khẩu của Việt Nam còn gặp phải những khó khăn xuất phát từ chính những yếu kém của nghành như máy móc thiết bị không đồng bộ, lạc hậu, không chủ động về nguyên-phụ liệu cho sản xuất...

Kế hoạch xuất khẩu của nghành da giầy Việt Nam trong năm 2002.

Sang năm 2001 nghành da giầy thế giới có sự tăng trưởng, trong đó Châu á chiếm trên 70% tổng sản lượng giầy dép trên thế giới, Trung Quốc là nước có sản lượng cũng như kim nghạch xuất khẩu lớn nhất trong khu vực này. Dựa vào những mặt hàng đã được ký kết cho sản xuất năm 2001 ở các doanh nghiệp, cùng với khả năng phát triển của nghành trong thời gian tới, nghành da giầy Việt Nam đặt ra mục tiêu đạt kim nghạch xuất khẩu toàn nghành trong năm 200 là 1,9-2 tỷ USD với lượng sản phẩm xuất khẩu dự kiến là từ 330-380 triệu đôi giầy dép các loại. Đến hết tháng 2 năm 2002, kim nghạch xuất khẩu của nghành đã đạt 315 triệu USD tăng 18,4% so với cùng kỳ năm trước. Đó là những tín hiệu đáng mừng, nhưng trước mắt chúng ta còn rất nhiều mục tiêu lớn, đó là đến năm 2005 xuất khẩu phải đạt 3,1 tỷ USD và đến năm 2010 con số này phải đạt 4,7 tỷ USD. Trong khi đó tiến trình hội nhập kinh tế thế giới của nước ta đang diễn ra nhanh chóng, đem lại cả những cơ hội và thách thức. Với việc thực hiện Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung của các nước ASEAN (CEPT), sau năm 2005, thuế suất của Việt Nam và các nước trong khu vực (trong đó có các đối thủ cạnh tranh mặt hàng da giầy như Inđônêxia, Thái Lan sẽ cùng thấp, khiến cho điều kiện cành tranh bình đẳng hơn, đồng nghĩa với việc phải tự khẳng định mình rõ ràng hơn việc Trung Quốc, nước dẫn đầu về sản xuất và xuất khẩu da giầy, gia nhập WTO sẽ đưa nước này thành đối thủ cạnh tranh nặng ký thâu tóm nhiều thị trường. Các nước sản xuất và xuất khẩu giầy da khác sẽ phải chịu áp lực cạnh tranh rất lớn từ Trung Quốc. Thời cơ lớn của Việt Nam là chính sách thuế quan cho việc xuất khẩu vào thị trường Mỹ sẽ thay đổi theo hướng thuận lợi sau khi hiệp định thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực.

Trước bối cảnh đó các doanh nghiệp da giầy trong nước trông chờ ở chính Phủ những biện pháp hỗ trợ tích cực, mang tính tổng thể. Để nghành da giầy Việt Nam có đủ sức sánh vai cùng các đối thủ trong cuộc cạnh tranh khốc liệt của kinh tế toàn cầu.

0