24/05/2018, 19:08

Tìm hiểu tiến trình ngữ pháp học việt nam

...

Tính cấp thiết của đề tài.

Chúng ta đã bước sang những năm đầu của thế kỷ XXI. Trên mọi lĩnh vực, mọi ngành khoa học, người ta bắt đầu đề cập tới vấn đề nhìn lại chặng đường một thế kỷ đã qua; tổng kết, đánh giá những ưu điểm, những tồn tại để lấy đó làm hành trang bước vào thế kỷ mới.

Ngành ngôn ngữ học nói chung và ngữ pháp học nói riêng cũng rất cần một tổng kết có tính chất hệ thống về những gì đã đạt được trong suốt thời gian ấy.

Có thể coi cái mốc đầu tiên đánh dấu cho sự ra đời của ngành ngữ pháp học Việt Nam là thế kỷ XVII, với cuốn Từ điển An Nam – Lusitan – Latinh của Alexand de Rhode, xuất bản tại Rome năm 1651. Tuy nhiên, tiến trình ngữ pháp học Việt Nam, tính đến giai đoạn này, lại chủ yếu nằm trọn trong thế kỷ XX. Cho đến nay, chưa có một công trình nào đề cập một cách hệ thống về toàn bộ tiến trình ngữ pháp học Việt Nam nói chung, hay ngữ pháp học Việt Nam thế kỷ XX nói riêng. Rải rác trên các sách báo, các chuyên luận là những tác giả được giới thiệu một cách đơn lẻ, là những vấn đề ngữ pháp được trình bày một cách độc lập. Chỉ có Nguyễn Văn Hiệp đề cập tới vấn đề cú pháp, Diệp Quang Ban đánh giá vấn đề ngữ pháp của nửa cuối thế kỷ XX..

Quả là chúng ta đang rất cần một công trình giới thiệu một cách tương đối trọn vẹn về các tác giả, các tác phẩm tiêu biểu và những vấn đề ngữ pháp nổi bật của toàn bộ tiến trình ngữ pháp học Việt Nam.

Từ những bức xúc ấy, chúng tôi quyết định chọn vấn đề: Tìm hiểu tiến trình ngữ pháp học Việt Nam làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.

Mục đích lớn nhất của đề tài là dựng nên bức tranh chung nhất về toàn bộ tiến trình ngữ pháp học Việt Nam, đặc biệt là trong thế kỷ XX.

Để đạt mục đích nói trên, đề tài đề ra những nhiệm vụ sau đây:

- Nêu bật những đóng góp của các nhà ngữ pháp học tiêu biểu cho sự hình thành và phát triển của ngữ pháp học nói riêng và ngành ngôn ngữ học nói chung.

- Chỉ ra những hạn chế không tránh khỏi của thời đại lịch sử đối với mỗi tác giả tiêu biểu.

- Tổng kết một số vấn đề nổi bật của ngữ pháp học: vấn đề từ loại, vấn đề thành phần câu, vấn đề phân loại câu, vấn đề cấu trúc chủ – vị và cấu trúc đề – thuyết, vấn đề thời - thể.

- Trên cơ sở những tổng kết ấy, làm rõ đôi nét về những bàn giao của thế kỷ XX cho những người nghiên cứu ngữ pháp ngày hôm nay.

Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài.

- Chỉ tập trung trình bày những tác giả và những công trình nghiên cứu tiêu biểu về ngữ pháp, đặc biệt là ở thế kỷ XX, chứ không phải tất cả những nhà ngữ pháp học cùng với tất cả các công trình của họ.

- Chỉ đi sâu khai thác những đóng góp nổi bật nhất của các tác giả ấy trong từng vấn đề nhất định cùng với một vài hạn chế của họ (nếu có).

- Chỉ tìm hiểu những vấn đề ngữ pháp tiêu biểu, không tìm hiểu toàn bộ các vấn đề ngữ pháp.

- Trong khi tìm hiểu những vấn đề này, chỉ dừng ở mức độ thống kê và nhận xét khái quát.

Dự kiến đóng góp của đề tài.

- Là bản tổng kết có tính chất chung nhất, hệ thống nhất về toàn bộ tiến trình ngữ pháp học Việt Nam, bởi tất cả những nghiên cứu của các tác giả đi trước đều chỉ dừng ở một số khía cạnh nhất định, trong những giai đoạn nhất định.

- Các nhà ngữ pháp học tiêu biểu, các công trình ngữ pháp tiêu biểu, các vấn đề ngữ pháp tiêu biểu đã được tổng kết là cơ sở lý luận cần thiết cho những nghiên cứu chuyên sâu về ngữ pháp và là tài liệu tham khảo hữu ích đối với những người làm công tác giảng dạy phân môn này trong trường phổ thông và đại học.

Phương pháp nghiên cứu.

Phương pháp nghiên cứu chung là phương pháp diễn dịch và quy nạp.

Phương pháp nghiên cứu cụ thể là phương pháp phân tích ngôn ngữ, phương pháp miêu tả, phương pháp so sánh - đối chiếu…

Cấu trúc và dung lượng của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung chính của đề tài bao gồm 47 trang, chia làm 2 chương:

Chương 1:Điểm qua những tác giả và những công trình nghiên cứu tiêu biểu theo dòng chảy thời gian

Trong chương này, chúng tôi chủ yếu dừng lại ở các tác giả tiêu biểu, có nhiều đóng góp đáng ghi nhận đối với toàn bộ sự phát triển của ngành ngữ pháp học Việt Nam ngày hôm nay. Chúng tôi cũng tập trung phân tích phần nào những hạn chế của mỗi tác giả, do hoàn cảnh lịch sử mang lại. Các vấn đề được trình bày theo trình tự thời gian, tức là theo lát cắt dọc của toàn bộ tiến trình.

Chương 2:Những vấn đề ngữ pháp tiêu biểu

Trong chương này, trước hết chúng tôi trình bày nhận xét chung về cả tiến trình theo các giai đoạn lịch sử cụ thể, sau đó tập trung vào những vấn đề nổi bật như: vấn đề từ loại, vấn đề thành phần câu, vấn đề phân loại câu, vấn đề cấu trúc chủ - vị và cấu trúc đề – thuyết, vấn đề thời và thể… Để có một cái nhìn sâu hơn, bổ sung cho chương 1, các vấn đề trong chương 2 này được trình bày theo lát cắt ngang của toàn bộ tiến trình ngữ pháp học Việt Nam.

Từ điển An Nam – Lusitan – Latinh và những nét phác thảo đầu tiên cho bức tranh ngữ pháp tiếng Việt (1651)

Bàn về tiến trình ngữ pháp học thế kỷ XX, chúng tôi xin được bắt đầu bằng việc quay ngược thời gian, trở về với thế kỷ XVII, thế kỷ đánh dấu sự ra đời của thứ chữ văn minh mà chúng ta đang sử dụng ngày hôm nay – chữ quốc ngữ.

Năm 1651, cuốn Từ điển An Nam – Lusitan – Latinh của Alexand de Rhode được xuất bản tại Rome. Cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên ấy đã chính thức mang một thứ chữ ghi âm vô cùng đơn giản, tiện lợi và khoa học vào Việt Nam. Cuốn sách này cũng chứa đựng bên trong nó cả những vấn đề về ngữ pháp tiếng Việt (tiếng miền Bắc). Đó là những vấn đề về cú pháp, được trình bày dưới dạng các luật, đề cập tới trật tự và chức năng của từ trong câu. Đó là những vấn đề về từ loại – một trong những nội dung cổ truyền bậc nhất của ngữ pháp truyền thống, bao gồm những từ biến hình (danh từ, đại từ, tính từ, động từ) và những từ không biến hình… Tất cả phạm trù từ loại tiếng Việt được mô tả theo khung của tiếng Latinh, theo cơ cấu dịch chuyển và mô phỏng. Sau đó hai thế kỷ, những năm 1855 – 1906, trong các sách tiếng Việt thực hành, những vấn đề về từ loại vẫn được viết theo hướng tương tự.

Từ điển An Nam – Lusitan – Latinh là cuốn từ điển đầu tiên ở nước ta, do một người nước ngoài viết, và bằng tiếng nước ngoài. Còn quá sớm để nói rằng nó là cuốn sách mở đầu cho sự ra đời của ngành ngữ pháp học Việt Nam song có thể khẳng định: nó đã phác thảo những nét ban đầu cho bức tranh ngữ pháp tiếng Việt sau này.

Trương Vĩnh Ký và cuốn sách ngữ pháp tiếng Việt đầu tiên (1883)

Năm 1883, cuốn sách viết về ngữ pháp tiếng Việt sớm nhất chính thức ra đời ở Việt Nam – cuốn Grammaire de la langue Annamite của học giả Trương Vĩnh Ký. Ông là người sinh cùng thời với Ferdinand de Saussure, rất thiệt thòi vì chưa được đọc Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, (cuốn sách ra đời năm 1916), để kịp biết tới cái hệ lý thuyết của ngôn ngữ học hiện đại mà Saussure là người khởi xướng. Song những cống hiến của ông cho ngôn ngữ học Việt Nam là vô cùng lớn lao. Ông không nghiên cứu gì về cú pháp cả song lại có những thành công đáng kể về từ loại, theo khuynh hướng truyền thống. Ông đã liệt kê được một danh sách rất tỷ mỷ bao gồm hơn 200 danh từ đơn vị (Sau này Nguyễn Tài Cẩn gọi là loại từ). Mặc dù trong danh sách ấy có những từ bị xếp nhầm, nhưng trước và sau Trương Vĩnh Ký, chưa có ai làm được việc này. Ông cũng thống kê trong tiếng Việt có khoảng 300 tính từ cùng với các yếu tố đi kèm (như: chua lòm, xanh lét…) Ông cũng có những đóng góp ít nhiều khi bàn tới vấn đề cách của danh từ, với quan điểm Tiếng Việt không có cách chân chính như tiếng Latinh… Muốn biểu thị cách trong tiếng Việt, người ta dùng những hư từ riêng biệt (81, tr 68, 69) …

Mặc dù vẫn còn bị những định kiến dĩ Âu vi trung chi phối, song Trương Vĩnh Ký và cuốn sách sớm nhất viết về ngữ pháp tiếng Việt cách đây hơn 2 thế kỷ vẫn là một đóng góp hết sức quan trọng cho ngành Việt ngữ học từ buổi đầu thơ ngây của nó. Trương Vĩnh Ký xứng đáng là nhà ngôn ngữ học đầu tiên ở Việt Nam.

Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm và khuynh hướng “từ bản vị” trong nghiên cứu cú pháp (1940)

Năm 1940, cuốn Việt Nam văn phạm của Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm ra đời. Cuốn sách chào đời trong giai đoạn mà các tài liệu về ngữ pháp tiếng Việt chủ yếu là do các nhà ngôn ngữ học nước ngoài viết (như M. Grammông, P. G Vallot, R. Bulteau…) Kém họ ở những hiểu biết chung về cơ sở lý thuyết ngôn ngữ học, song ba tác giả, vốn không phải tất cả đều là dân chuyên nghiệp này, vẫn hơn hẳn họ ở chỗ là những người bản ngữ, sinh ra đã biết tiếng Việt. Vì vậy ba ông đã có những đóng góp đáng kể trong việc lý giải các sự kiện ngôn ngữ. Với cố gắng thoát khỏi lối mô phỏng, sao chụp châu Âu của ngữ pháp truyền thống, ba ông đã có những nhận xét tinh tế và những kiến giải độc lập về vấn đề từ loại, đặc biệt là những nghiên cứu khá sâu về danh từ. Việc chia động từ ra làm hai loại: có túc từkhông có túc từ (79, tr 218 - 251) là một ưu điểm giúp ta có thể nắm được đặc tính cú pháp của một số động từ… Các tác giả cũng đã bắt đầu nhận thấy những bất hợp lý trong việc gò tiếng Việt vào khung ngữ pháp châu Âu. Song dù sao đi nữa, những hạn chế không tránh khỏi của thời đại khi nước nhà chưa độc lập vẫn in dấu trong nghiên cứu của các nhà ngữ pháp học Việt Nam trước 1945 nói chung và ba tác giả Trần, Bùi, Phạm nói riêng. Đặc biệt là ở quan niệm lấy từ làm trung tâm trong nghiên cứu cú pháp, một khuynh hướng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của ngữ pháp Âu châu thời bấy giờ. Quan niệm này không thể áp dụng vào tiếng Việt hay các ngôn ngữ cùng loại hình đơn lập (như tiếng Hán, tiếng Thái…), bởi trong các ngôn ngữ này, xác định từ là một việc không dễ dàng. Quan điểm Từ bản vị tồn tại cho đến những năm 1950 thì đi vào tàn lụi.

Về mặt phương pháp nghiên cứu, các tác giả của Việt Nam văn phạm đã từng phát biểu: Tiếng nói là cách biểu diễn cái tư tưởng của người ta ra cho người khác biết… Cách biểu diễn ấy tuy khác, nhưng bao giờ cũng phải theo cái lý cho thuận. Đã theo lý thì dù đông, dù tây, đâu đâu cùng một lý cả. Vậy theo phương pháp của Tây mà phân ra các từ loại, tưởng không phải là sự sai lầm. (79, tr11). Đây chính là một nhược điểm do sự lẫn lộn giữa ngữ pháp và logic (ảnh hưởng của ngữ pháp duy lý mà các học giả phương Tây đã sùng bái từ thế kỷ XVII) gây ra. Vậy là dù đã cố gắng, Việt Nam văn phạm vẫn không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Dù sao, việc phân chia từ loại theo kiểu mô phỏng các ngôn ngữ châu Âu cũng có giá trị thực tiễn một thời.

Lê Văn Lý và những ảnh hưởng của ngôn ngữ học cấu trúc – chức năng (1948, 1968)

Năm 1948, Lê Văn Lý viết Le parler Vietnamien. Sách của ông là tuyên ngôn đầu tiên tuyên bố từ bỏ việc đi theo ngôn ngữ châu Âu để nghiên cứu tiếng Việt. Ông cũng là người đầu tiên mang phương pháp của ngôn ngữ học cấu trúc (theo lối chức năng Praha) đến với lĩnh vực nghiên cứu cú pháp. Lý thuyết về khả năng kết hợp của ông là một minh chứng cho những điều đó. Trước ông, chưa có ai đề xuất ra tiêu chí giá trị kết hợp để phân chia từ loại. Ông khá xuất sắc trong việc miêu tả đặc điểm của danh từ trong sự đối lập với động từ và tính từ. Ông cũng nhận ra tính từ trong tiếng Việt có thể đứng cạnh động từ chứ không đi liền với danh từ như ngôn ngữ châu Âu… Năm 1968, ông viết cuốn Sơ thảo ngữ pháp Việt Nam. Cuốn sách không dày nhưng đề cập tới những vấn đề của ngôn ngữ học trên diện rộng: vấn đề âm vị học, vấn đề hình thái học, vấn đề cú pháp học. Ông đã cố gắng phân tích những âm vị, sự phối hợp các âm vị, trình bày các từ loại, các hạng mục ngữ pháp, các kiểu câu… Đặc biệt, với sự miêu tả các loại câu: câu tự loại, câu đơn giản, câu phức tạp, câu khẳng định, câu phủ định, câu nghi vấn, câu khuyến lệnh, câu cảm thán, ông đã vượt qua chính mình trong Le parler Vietnamien khi phác thảo ngữ pháp tiếng Việt bằng 24 kiểu tổ hợp cùng từ loại, 70 kiểu tổ hợp khác từ loại, 29 kiểu đặt câu với 5 từ và với những hoán vị khác nhau.Tuy tên gọi các thành phần câu của ông vẫn là một sự mô phỏng tiếng Pháp theo khuynh hướng từ bản vị (chủ từ, túc từ…); tuy sự phân biệt động từ/tính từ của ông chưa triệt để, rõ ràng (vì chỉ căn cứ vào từ chứng); tuy về ngữ pháp, ông tuyên bố không quan tâm đến nghĩa (không bao giờ cầu cứu đến ý nghĩa để hướng dẫn công việc vì như thế sẽ là chạy theo ngữ cảm); tuy những trang viết về ngữ âm học của ông vẫn còn lỗi sai (chẳng hạn ông cho rằng, thanh điệu nằm ở phần nguyên âm, thực ra thanh điệu nằm chủ yếu ở phụ âm)…; song cuốn sách của ông vẫn có một giá trị lịch sử rất lớn. Nó mở đầu cho khuynh hướng nghiên cứu ngôn ngữ theo trường phái cấu trúc – chức năng Praha và do đó, đánh dấu một mốc chuyển biến đáng kể trong nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt những năm sau Cách mạng tháng Tám.

M.B. Emeneau và ngữ pháp cấu trúc theo lối miêu tả (1951)

Một trong những nhà ngôn ngữ học nước ngoài rất tâm huyết với việc nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt là M.B. Emeneau. Đây là một đại diện tiêu biểu của khuynh hướng cấu trúc luận – khuynh hướng ngữ pháp cấu trúc theo lối miêu tả thịnh hành ở Anh, Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. M.B. Emeneau không phải là người nước ngoài duy nhất nghiên cứu về tiếng Việt, cũng không phải là người nước ngoài sớm nhất làm công việc này, song ông đã vượt xa những nhà ngôn ngữ học ở trường Viễn đông Pháp chỉ quan tâm tới các trạng thái cổ, các hệ thống ngữ âm cổ của Việt ngữ, vượt xa P.G. Vallot, R. Bulteau… những người đã ra sức gò cú pháp tiếng Việt theo tiếng Pháp. Xuất phát điểm của ông là nghiên cứu Việt ngữ trong trạng thái hiện nay. Cuốn sách của ông, Studies in Vietnamese grammar, xuất bản năm 1951, đã thổi vào ngữ pháp học Việt Nam một luồng sinh khí mới, một phương pháp nghiên cứu mới. Cuốn sách rất chú trọng tới những miêu tả ngữ âm và loại từ trong tiếng Việt. Công dụng của những từ cụ thể cũng được bàn tới khá chi tiết. Đặc biệt, chính ông, (chứ không phải Nguyễn Tài Cẩn), là người đầu tiên dựng nên sơ đồ của toàn danh ngữ tiếng Việt, bằng cách đưa ra giản đồ về cấu tạo thực thể từ có số trong tiếng Việt (62, tr35, 68). Ông cũng chú ý tới việc phân chia câu thành hai loại: câu danh từ và câu động từ… Phương pháp làm việc của tác giả cũng khá thuyết phục, bởi đã cố gắng đi tìm những chứng cớ thực sự khách quan.

Tuy nhiên, là một người nước ngoài nghiên cứu tiếng Việt, M.B. Emeneau không thể tránh khỏi những thiếu sót. Cái đáng tiếc nhất của tác giả là đã vô hình trung loại đơn vị từ ra khỏi cấp hệ ngôn ngữ, bằng cách đồng nhất từ đơn với âm tiết và hình vị; xếp từ ghép vào địa hạt cụm từ. Dù sao, kết quả nghiên cứu của ông cũng rất cần thiết cho giai đoạn lịch sử ấy và rất đáng được trân trọng.

Bùi Đức Tịnh và Văn phạm Việt Nam (1952)

Từ trong khói lửa đạn bom của một cuộc chiến đấu mới sau khi nước nhà đã giành được độc lập, Văn phạm Việt Nam của Bùi Đức Tịnh ra đời. Cuốn sách là lời ngợi ca Việt ngữ, thứ tiếng mà chúng ta mới chính thức được dùng từ năm 1945, là lời kêu gọi mọi người trút bỏ mọi thành kiến sai lầm đối với văn phạm học, nhìn tiếng Việt bằng con mắt Việt. Hướng nghiên cứu của Bùi Đức Tịnh về cơ bản không có gì mới, vẫn theo lôgic truyền thống và khuynh hướng từ bản vị, song Văn phạm Việt Nam vẫn là một đóng góp đáng kể trong tiến trình ngữ pháp học thế kỷ XX.

Nội dung cơ bản của cuốn sách trên là sự trình bày tổng quát về văn phạm học, các đặc tính của tiếng Việt, các từ loại tiếng Việt và các vấn đề về cú pháp. Nguyên tắc làm việc của tác giả là lấy ngôn ngữ thông dụng làm đối tượng khảo sát, nhằm tính cách thực dụng hơn là nghiên cứu. Tác giả cho rằng ngữ pháp học phải có một phương pháp khoa học, thực hiện với một tinh thần khoa học (1, tr12). Những đóng góp cụ thể của tác giả có thể kể đến là: (1) Bùi Đức Tịnh là người đầu tiên biết phân biệt động từ với tuyên ngữ (vị ngữ). Trước đây, ngữ pháp học truyền thống không chú ý tới sự khác biệt này. (2) Bùi Đức Tịnh cho rằng câu gồm hai thành phần chủ yếu là chủ ngữtuyên ngữ (1, tr 244), chứ không phải ba (chủ ngữ + động từ + bổ ngữ) như trong các ngôn ngữ Ấn - Âu. (3) Ông cũng là người đầu tiên phân loại danh từ không theo truyền thống (môt sự phân loại mô phỏng theo tiếng Pháp). Theo ông, danh từ tiếng Việt phải chia thành danh từ chung và danh từ riêng, danh từ xác định và danh từ phiếm định. Ông cũng có những thành công nhất định khi mô tả những đặc trưng của các tiểu loại danh từ.

Tuy nhiên, Văn phạm Việt Nam vẫn không tránh khỏi những thiếu sót do hạn chế của thời đại mà Bùi Đức Tịnh, dù đã cố gắng, vẫn không thể vượt lên. Ông vẫn lấy ý nghĩa của các từ loại trong tiếng Latinh và tiếng Pháp làm tiêu chuẩn phân định từ loại. Ông có những lẫn lộn khi xác định từ loại trạng từ. Mặc dù là người đầu tiên biết phân biệt động từ và tuyên ngữ, song có lúc ông lại phủ nhận điều ấy, chẳng hạn như khi định nghĩa động từ thì ông lại phát biểu: Động từ là những tiếng chỉ việc xảy ra cho những người và vật nói đến trong câu (1, tr179). Sự phân loại danh từ của ông cũng không triệt để. Quan niệm về các phạm trù ngữ pháp (giống, số, thời, thể…) cũng chỉ là một sự mô phỏng, chứ không căn cứ vào đặc trưng riêng của tiếng Việt. Những trang viết về ngữ âm còn có sự lẫn lộn giữa âm tố và âm vị, nguyên âm đôi và nguyên âm đơn…

Song, với những thành công đáng kể của Văn phạm Việt Nam từ những ngày nước nhà vừa độc lập, Bùi Đức Tịnh xứng đáng là một trong những người đóng vai trò tiên phong cho sự hình thành và phát triển của ngành ngữ pháp Việt Nam.

Phan Khôi và hành trình từ bỏ khuynh hướng “từ bản vị” sang “cú bản vị” trong nghiên cứu cú pháp (1955)

Phan Khôi là một nhà văn hoá có một tâm hồn, trí tuệ và nhân cách lớn. Với một vốn hiểu biết rộng, không chỉ về tiếng Việt, mà còn cả tiếng Hán, tiếng Pháp, tiếng Anh, bằng một sự trân trọng và yêu quý hết mực ngôn ngữ mẹ đẻ của mình, Phan Khôi đã từng trăn trở suốt bảy năm (từ 1948 đến 1955), khát khao viết được một cuốn sách về ngữ pháp tiếng Việt cho đâu ra đó (72, tr5). Khát khao ấy của ông bắt nguồn từ cảm hứng khi được đọc cuốn sách dày năm trăm trang Tân trước quốc ngữ văn pháp của Lê Cẩm Hy, bàn về ngữ pháp tiếng Trung Quốc. Việt ngữ nghiên cứu của Phan Khôi ra đời, là một tập hợp những bài viết riêng lẻ của ông về tiếng Việt, trên một phương pháp luận: Giữa các ngôn ngữ khác nhau vẫn tồn tại những cái giống nhau (ông gọi là đại đồng), và mỗi ngôn ngữ lại có một đặc trưng riêng biệt, (ông gọi là tiểu dị). Ông cố công đi tìm cái tiểu dị ấy trong tiếng Việt. Ông phê phán khuynh hướng từ bản vị trong nghiên cứu cú pháp, bởi theo ông, nó không hợp với tiếng ta, thứ tiếng mà mỗi chữ, công dụng của nó chỉ có khi nào dùng vào trong câu mới phân biệt, chứ tự nó không phân biệt sẵn bởi hình của nó (72, tr187). Cần phải theo cú bản vị: lấy tổ chức của câu làm gốc, làm phần chính trong sự dạy văn pháp. Bắt đầu từ câu ngắn rồi đến câu dài, từ câu đơn rồi đến câu kép, rồi sau nữa đến những câu ấy hợp lại mà thành một bài, một thiên. Trong khi ấy mới tuỳ ở vị trí, chức vụ của từng từ mà quy nhập nó vào loại nào, và nhân đó mà nhìn rõ công dụng của nó (72, tr188). Ông đề nghị cách dùng đồ giải để phân tích câu. Ông cũng chủ trương phân biệt tự, từ, ngữ, cú. Về thành phần câu tiếng Việt, ông cho rằng có 6 thành phần: chủ ngữ, vị ngữ (còn gọi là thành phần chủ yếu); tân ngữ, bổ túc ngữ (thành phần liên đới); hình dung phụ gia ngữ, phó từ phụ gia ngữ (thành phần phụ gia). Về từ loại, ông phân biệt chín thứ từ, xếp vào 5 loại: (1) danh từ, (2) đại danh từ, xếp vào loại thể từ; (3) động từ, vào loại thuật thuyết từ; (4) hình dung từ, (5) phó từ, xếp vào loại khu biệt từ; (6) giới từ, (7) liên từ, xếp vào loại quan hệ từ; (8) trợ từ, (9) thán từ vào loại tình thái từ. Danh sách các thành phần câu và các từ loại mà ông đề nghị đến nay đã có nhiều thay đổi. Song việc căn cứ vào chức năng cú pháp để xác định từ loại vẫn là một gợi ý quý báu cho ngành ngữ pháp học trên con đường hoàn thiện của mình.

Quan điểm học thuật của Phan Khôi rất tiến bộ. Ông cho rằng: Công dụng của mỗi từ phải là khi nó ở trong câu mới thấy được rõ. Điểm này rất trùng với quan điểm của Wittgenstein: Nghĩa của một từ chính là cách dùng nó trong câu. Từ quan điểm ấy, ông nêu rõ: Vậy nếu khi chưa biết phép đặt câu mà cứ dạy cho phân tích các từ loại, kẻ học dù có biết được rành mạch chữ nào thuộc về từ loại nào chăng nữa, sự học cũng thấy vô vị, dễ chán (72, tr186). Phải chăng từ những năm giữa thế kỷ XX, chúng ta đã có một gợi ý cho việc đổi mới quy trình dạy ngữ pháp ngược lại với quy trình mà hiện nay chúng ta vẫn đang sử dụng: đi từ phạm vi văn bản, đến đoạn văn, đến câu, ngữ và từ?

Mặc dù ông là con ngưòi nổi tiếng về chứng lôgic máy móc, có lúc không phân biệt ngữ pháp và lôgic, mặc dù ông tự nhận xét về những trang viết của mình là nông nổi, lẻ loi, vụn vặt; song so với các sách ngữ pháp trước đó, Việt ngữ nghiên cứu của ông khá sáng sủa, gần gũi và dễ tiếp nhận đối với người đọc. Phan Ngọc và Nguyễn Lân là những người kế cận xứng đáng của ông. Việt ngữ nghiên cứu quả là một đóng góp hữu ích cho loại hình học và ngữ pháp học trên con đường phát triển của nó.

Nguyễn Lân và bộ sách “Ngữ pháp Việt Nam” đầu tiên viết cho trường phổ thông (1956)

Cho đến nay, học sinh của chúng ta đã quá quen với các cuốn sách giáo khoa Tiếng Việt, từ lớp 1 đến lớp 11. Trải qua biết bao thăng trầm của những lần thay sách, ít người để ý đến việc những cuốn sách đầu tiên viết về ngữ pháp được dùng thống nhất trong các trường phổ thông ở nước ta ra đời khi nào và có lịch sử ra sao. Có thể khẳng định rằng bộ sách ấy chính thức xuất hiện vào năm 1956, với tên gọi Ngữ pháp Việt Nam, dành cho học sinh từ lớp 3 đến lớp 7, mà tác giả của nó là giáo sư Nguyễn Lân.

Sau thành công của Cách mạng tháng Tám, chúng ta đã tiến hành dạy ngữ pháp tiếng Việt cho học sinh trong các trường phổ thông, song đó là thứ ngữ pháp còn chịu ảnh hưởng nặng nề của tiếng Hán và tiếng Pháp. Vẫn theo hướng thiên hơn về ngữ pháp truyền thống, nhưng bộ sách Ngữ pháp Việt Nam của Nguyễn Lân đã mở ra một giai đoạn mới cho việc dạy và học ngữ pháp trong nhà trường bằng một loạt các đóng góp, chẳng hạn: (1) Đưa những thuật ngữ mới thay thế cho những thuật ngữ được cấu tạo theo tiếng Hán và tiếng Pháp (như: chỉ định đại danh từ, hình dung từ) Đó là các thuật ngữ: chủ ngữ, vị ngữ, tính từ, đại từ… (2) Gạt bỏ lối phân tích câu kiểu Pháp: chủ từ - động/tính từ – túc từ, đến với lối phân tích câu kiểu Việt: chủ ngữ - vị ngữ. (3) Dùng cách vẽ sơ đồ để thuyết minh cấu tạo câu… Những đổi mới này đã giúp cho việc truyền đạt và tiếp thu ngữ pháp trở nên dễ dàng hơn. Cho đến nay, các sách tiếng Việt dùng cho trường phổ thông đã có nhiều thay đổi, nhưng về cơ bản, tên gọi của các thành phần câu, các từ loại hay lối phân tích câu theo cấu trúc chủ – vị vẫn rất gần gũi và vẫn có những giá trị nhất định của nó.

Tuy nhiên, do hạn chế chung của lịch sử, bộ sách Ngữ pháp Việt Nam vẫn còn những khiếm khuyết. Tác giả, dù rất cố gắng, vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề của ngữ pháp tiếng Pháp, đặc biệt là việc lấy ngữ pháp tiếng Pháp làm chuẩn trong phân tích cú pháp tiếng Việt. Chẳng hạn, dịch một câu từ Việt sang Pháp, trong phương pháp dịch thuật hiện nay, chúng ta đều biết rằng, phải dịch ý cả câu chứ không ghép nghĩa của từng từ, nhưng Nguyễn Lân lại đối chiếu nghĩa của từng từ một. Hạn chế nữa của tác giả là nhầm lẫn tính từtrạng từ. Tính từ khi kết hợp với danh từ thì vẫn được coi là tính từ, nhưng khi kết hợp với động từ thì lại được coi là trạng từ. Thực chất việc phụ thuộc vào danh từ hay động từ chỉ làm thay đổi tư cách thành phần câu (làm định ngữ hay bổ ngữ) còn bản chất từ loại của tính từ thì không thay đổi…

Tâm huyết Nguyễn Lân không chỉ dành cho ngữ pháp. Một hệ thống từ điển không nhỏ là con đẻ của ông từ những năm 80. Mặc dù còn có những hạn chế nhất định khi xây dựng từ điển, song ông vẫn là một trong những nhà từ điển học có uy tín ở Việt Nam, bên cạnh tư cách một người thày về ngữ pháp.

Nguyễn Tài Cẩn và những thành tựu rực rỡ trong nghiên cứu đoản ngữ danh từ (1960, 1975)

Nguyễn Tài Cẩn là một nhà khoa học xuất sắc ở Việt Nam, là một trong số không nhiều những nhà khoa học được giới nghiên cứu nước ngoài biết đến. Ông là một bậc tài hoa, sâu sắc và thông thái. Nếu như Nguyễn Tài Cẩn nổi tiếng trên lĩnh vực ngữ âm học với Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (1995) thì cũng nổi tiếng trên lĩnh vực ngữ pháp học với Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại (1960), Ngữ pháp tiếng Việt: tiếng, từ ghép, đoản ngữ (1975). Đặc biệt, bằng lý luận ngôn ngữ học hiện đại, từ những năm 60, tác giả đã thành công trong việc mô tả danh ngữ tiếng Việt. Trong đó tác giả đã giải quyết khá thoả đáng các vấn đề: xác lập các nét khu biệt của từ loại danh từ, xác lập hệ thống các phạm trù từ vựng - ngữ pháp nhỏ trong nội bộ danh từ, tìm hệ thống đối lập giữa các hư từ dùng để tạo dạng thức phân tích tính và diễn đạt các phạm trù ngữ pháp cho danh từ.

Việc phân biệt từ loại danh từ với các từ loại khác trước đây đã từng được bàn đến trong những nghiên cứu của Lê Văn Lý, của Martini. Việc xác lập các phạm trù từ vựng - ngữ pháp nhỏ trong nội bộ danh từ và mô hình đoản ngữ danh từ cũng đã được M.B Emeneau đề cập đến. Song, giải quyết của các tác giả ấy vẫn còn cần những điều chỉnh, bổ sung. Nguyễn Tài Cẩn đã hoàn tất công việc đó. Tác giả đã xây dựng một mô hình danh ngữ ở dạng lý tưởng gồm có 7 vị trí, trong đó xác định rõ ở mỗi vị trí có những từ loại nào. Từ mô hình lý tưởng, tác giả đi đến các dạng có thực của danh ngữ… Những thành công của tác giả không chỉ có tác dụng cụ thể đối với lĩnh vực từ pháp và cú pháp học mà việc động chạm tới vấn đề phạm trù ngữ pháp và phương tiện ngữ pháp còn làm sáng rõ đặc trưng của loại hình ngôn ngữ đơn lập, phân tích tính của tiếng Việt.

Trong phần phụ lục cuối sách, Nguyễn Tài Cẩn nói lên một băn khoăn: Ông rất muốn coi, trong đoản ngữ danh từ, loại từ là trung tâm, còn danh từ ở sau chỉ là thành tố phụ. Quả thực ông cũng có lý khi băn khoăn như vậy, nhưng cũng thật khó có thể giải quyết theo hướng này. (Năm 2001, Nguyễn Phú Phong, một đại diện tiêu biểu cho nhóm tác giả ở Pháp, cũng quay trở lại nghiên cứu vấn đề loại từ). Dù sao, Nguyễn Tài Cẩn vẫn có công lớn trong việc mô tả danh ngữ và đặt đúng cương vị của tiếng. Hơn bốn mươi năm đã trôi qua, nhưng những tư tưởng của Nguyễn Tài Cẩn vẫn còn giữ nguyên tính thời sự của nó.

Hoàng Tuệ và “Giáo trình về Việt ngữ” (1962)

Hoàng Tuệ là một con người có tài năng thiên bẩm về ngôn ngữ học và có một năng khiếu đặc biệt về văn chương. Ông là một trong những người có vai trò quyết định đối với sự ra đời, trưởng thành và phát triển của ngành ngôn ngữ học tiếng Việt. Ông viết nhiều và cũng thành công trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực tu từ học, xã hội – ngôn ngữ học và ngữ pháp học. Hai tác phẩm lớn về ngữ pháp có sự đóng góp cơ bản của ông là Giáo trình về Việt ngữ (1962) và Ngữ pháp tiếng Việt (1983).

Nếu lấy thời điểm những năm 60 mà xét thì những đóng góp của Hoàng Tuệ cho ngôn ngữ học to lớn biết nhường nào. Trước hết, đó là những đóng góp về lý luận ngôn ngữ học đại cương, mà ông đã vận dụng hết sức linh hoạt vào nghiên cứu tiếng Việt. Ông rất tỉnh táo nhận ra những chỗ còn thiếu sót trong Ferdinand de Saussure (trường phái cấu trúc luận) hay Chomsky (tạo sinh luận). Sau nữa là những vấn đề nền móng cho một ngữ pháp Việt Nam ngày hôm nay qua Giáo trình về Việt ngữ. Ông quan niệm rằng: Khi nghiên cứu về Việt ngữ, … thường có trong truyền thống sự so sánh giữa Việt ngữ và Pháp ngữ, nhưng cần phải nhận thấy sự khác nhau giữa tính chất căn bản của hai ngôn ngữ này. Pháp ngữ mặc dầu đã mất nhiều bộ khuất chiết và không còn giữ tính chất của các ngữ ngôn như Latinh ngữ hay Nga ngữ, nhưng không phải vì thế mà lấy ngữ pháp Pháp ngữ làm cái mẫu cho Việt ngữ (30, tr397). Trên cơ sở đó, ông bàn tới các vấn đề như: ngữ pháp là gì, tình hình nghiên cứu ngữ pháp trước đây ở nước ta, ý nghĩa ngữ pháp, hình thức ngữ pháp, phạm trù ngữ pháp, quan hệ cú pháp, các kiểu câu, vấn đề từ tổ, từ loại, tình thái, thành phần câu… Những nghiên cứu của Hoàng Tuệ khá chi tiết và bám sát vào ngữ liệu tiếng Việt. Đặc biệt, khi trình bày các vấn đề cụ thể của ngữ pháp tiếng Việt, ông rất hay so sánh với tiếng Pháp, để người đọc hình dung được sự khác biệt giữa hai ngôn ngữ này, và cũng để khẳng định những đặc trưng riêng biệt của tiếng Việt. Ông cũng đã phát hiện ra một loại thành phần mới của câu, thành phần minh xác ngữ, do sự phân biệt các loại bổ ngữ khác nhau trong tiếng Việt mà ra (không giống với minh xác ngữ của Lưu Vân Lăng hay Cao Xuân Hạo). Ví dụ: Giấy này rất ăn mực, mực là minh xác ngữ. Có lẽ hậu thế cũng chưa để công khai thác triệt để vấn đề khá lý thú mà ông đã gợi mở này. Ông cũng đã từng nhắc tới một ngành khoa học hết sức mới mẻ, ra đời ở Việt Nam cuối những năm 80, là hiệu dụng học (pragmatique - ngữ dụng học bây giờ). Ông cũng có những kiến giải sâu về từ loại.

Lại lấy thời điểm những năm đầu thế kỷ XXI ra mà xét, ta cũng thấy đôi chỗ chưa hoàn hảo của Giáo trình về Việt ngữ. Chẳng hạn chỗ nhập nhằng giữa câu đơn giản và câu phức hợp, việc dùng rất làm từ chứng để phân biệt động từ và tính từ… Song, nói theo Cao Xuân Hạo, có thể khẳng định rằng ông là một trong những người xứng đáng được toàn thể đội ngũ giảng viên, giáo viên, nghiên cứu viên, sinh viên và học sinh có liên quan đến ngôn ngữ học và tiếng Việt kính cẩn gọi bằng thầy (30, tr1149). Và nhắc tới tiến trình ngữ pháp học tiếng Việt, chúng ta không thể bỏ qua không nhắc đến tên ông.

Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê với “Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam”(1963)

Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam của hai tác giả đàng trong Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê là một cuốn sách có độ dày đáng nể trọng: hơn 700 trang. Sách được viết trong giai đoạn cấu trúc luận và cấu trúc chức năng luận đang có ảnh hưởng hết sức mạnh mẽ đến những nghiên cứu của giới Việt ngữ học. Xuất phát điểm của hai tác giả là cố gắng đi tìm những đặc trưng riêng biệt của tiếng Việt, thay thế cho việc mô phỏng các ngôn ngữ châu Âu, bởi dù lý trí của con người chỉ có một, nhưng mỗi dân tộc đều có một lối riêng để cấu tạo tư tưởng, diễn tả tư tưởng; nên không thể lấy một tộc ngữ nào làm mô phạm để phân tích tộc ngữ khác (80, tr19). Tiếng ta phải có ngữ pháp, và ngữ pháp của ta có những đặc điểm không có trong ngữ pháp Tây phương, cũng như ngữ pháp Tây phương có nhiều điều không đem áp dụng vào ngôn ngữ của ta được (80, tr30). Đây là một quan điểm đúng đắn.

Nếu như Lê Văn Lý không quan tâm đến nghĩa thì Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê lại chủ trương ngược lại. Hai ông cho rằng muốn nghiên cứu ngôn ngữ theo phương pháp khoa học thì không thể bỏ phần ý nghĩa. Trong khảo luận của mình, hai tác giả cố gắng coi trọng cả ba mặt: âm thanh, ý nghĩa và cấu trúc của ngôn ngữ. Hai ông đi sâu nghiên cứu cái gọi là từ tínhtừ vụ, trên quan điểm: Mỗi từ có hai tác dụng: tác dụng về phương diện ý nghĩa và tác dụng về phương diện cấu tạo câu (cú pháp) (80, tr149). Đây là một ưu điểm lớn. Những trang viết về loại từ lượng từ cũng rất tỷ mỷ. Song, hai tác giả chủ trương lướt qua phần từ loại, xuất phát từ quan điểm cho rằng Việt ngữ không có ngành từ pháp như của Tây phương (80, tr208). Theo các ông, cú pháp là phần quan trọng hơn cả trong ngữ pháp tiếng Việt (80, tr209). Và quả thực, các vấn đề về câu được các ông khảo sát trên phạm vi rộng nhưng vẫn khá sâu sắc. Hai ông cũng là những người đầu tiên dùng thuật ngữ , là những người đầu tiên phát hiện ra một loại thành phần câu rất riêng của tiếng Việt – thành phần chủ đề – mà sau này Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp gọi là khởi ngữ. Đây là những đóng góp đáng ghi nhận của hai ông trên hành trình đi tìm những đặc trưng riêng cho tiếng Việt.

Khảo luận ngữ pháp Việt Nam được viết với một văn phong giản dị và khoa học. Cách trình bày, lý giải, dẫn dắt vấn đề của tác giả khá độc đáo. Người viết có một vốn hiểu biết sâu rộng về ngoại ngữ và ngôn ngữ. Song mặc dù tuyên bố phương pháp nghiên cứu của mình là chú ý cả hình thức lẫn nội dung, trên thực tế, đôi chỗ, khi xác định ranh giới của từ, từ loại hay phân tích câu…, tác giả vẫn chỉ căn cứ vào ý nghĩa. Tuy nhiên, trên tất cả những điều ấy, đây là một cuốn sách quý, góp phần làm nên diện mạo của một ngữ pháp Việt Nam ngày hôm nay.

Ju. K. Lekomcev và phương pháp phân tích thành tố trực tiếp (1964)

Năm 1964, Ju. K. Lekomcev mang một phương pháp nghiên cứu mới vào miêu tả cấu trúc câu đơn tiếng Việt. Đó là phương pháp của trường phái ngôn ngữ học kết cấu miêu tả Mỹ do L. Bloomfield sáng lập trong chính giai đoạn này.

Ju.K. Lekomcev ứng dụng mô hình phân tích các thành tố trực tiếp (IC) vào nghiên cứu câu tiếng Việt. Cách phân tích này dựa trên quan niệm cho rằng câu được tạo nên bằng cách gộp dần những kiến trúc hai thành tố lại và do đó cũng đễ dàng phân giải thành từng đôi một. Các thao tác chủ yếu là lưỡng phân và lược. Bằng cách miêu tả chi tiết trình tự các thao tác phân tích, Ju.K. Lekomcev đã vẽ nên một sơ đồ đầy đủ về cấu trúc câu đơn tiếng Việt, với cấu tạo của từng thành tố theo tầng bậc, ký hiệu là En. Cuối cùng, ta được một cấu trúc câu đơn gồm có các từ tình thái, các trạng ngữ chỉ thời gian, trạng ngữ chỉ địa điểm, chủ ngữ, vị ngữ… Đây là một hướng nghiên cứu mới, góp phần bổ sung cho cách phân tích câu theo mệnh đề của truyền thống, tuy nhiên, sau này nó cũng không trở thành phương pháp nghiên cứu cú pháp phổ biến ở Việt Nam.

Là một người theo trường phái miêu tả, dĩ nhiên, Ju.K. Lekomcev cũng trung thành với việc chia ngôn ngữ thành ba cấp độ là âm vị học, hình thái họccú pháp. Với tiếng Việt, ông đồng nhất khái niệm từ với cụm từ, từ tiếng Việt cũng được nhìn nhận như mô hình hình vị của châu Âu (từ là kết hợp của hình vị thực với các hình vị hư), ông gọi nó là từ phân tích tính. Việc loại bỏ cấp độ từ ra khỏi hệ thống các cấp độ ngôn ngữ của tiếng Việt là một hạn chế của Ju.K. Lekomcev. Việc xác định các thành phần câu chỉ bằng tiêu chí hình thức cũng là một khiếm khuyết. Phương pháp phân tích câu theo thành tố trưc tiếp đã dẫn đến kết quả là ngữ động từ làm trung tâm của câu. Và do vậy, câu chỉ có một thành phần chính là thành phần vị ngữ. Đây cũng là vấn đề rất cần phải bàn thêm… Tuy nhiên, đóng góp về mặt phương pháp nghiên cứu là điều chúng ta rất trân trọng và cần ghi nhận ở tác giả không phải là người bản ngữ này.

Nguyễn Kim Thản và lý thuyết từ tổ (1964)

Trên thế giới, việc nghiên cứu từ tổ chính thức được thành hình vào những năm 70 – 80 của thế kỷ XIX, với tên tuổi của F.F. Fortunatov (thuộc trường phái Moskva). Còn ở Việt Nam, người đầu tiên áp dụng lý thuyết từ tổ vào nghiên cứu cú pháp tiếng Việt, vào những năm 60 – 70 của thế kỷ XX, là Nguyễn Kim Thản. Từ tổ là đơn vị trung gian giữa từ và câu, nó vừa giống với từ, nhưng không phải là từ, vừa giống với câu, nhưng lại không phải là câu. Với quan điểm khá độc đáo: Câu không phải do từ trực tiếp tạo nên mà mà do từ tổ tạo nên, lý thuyết từ tổ đã tạo ra một cơn lốc trong nghiên cứu cú pháp ở Việt Nam (như: đặt lại vấn đề câu đơn và câu ghép, vấn đề phân biệt thành phần câu với thành phần của từ tổ, xác định các kiểu câu căn cứ vào đặc điểm của từ tổ…) Nguyễn Kim Thản cho rằng việc phân tích chức năng của từng từ có tác dụng là xác định được quan hệ ngữ pháp của các từ với nhau nhưng lại có nhược điểm là làm cho ý nghĩa của câu có thể bị khác đi, hoặc có thể trở nên vô nghĩa. Trong tiếng Việt, có những trường hợp nếu quá chú ý tới việc chia cắt câu thành các từ thì ý nghĩa của câu sẽ bị vụn nát. Trong khi đó, nếu lấy từ tổ làm gốc trong phân tích cấu trúc câu thì sẽ khắc phục được tình trạng này. Tác giả đề nghị nên coi từ tổ có thể đảm nhiệm chức năng ngữ pháp như từ trong mọi trường hợp (có thể là chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ…). Rồi khi tiếp tục phân tích quan hệ của từng từ, ta sẽ tìm ra những từ chính, từ phụ hay bình đẳng như nhau (54, tr417). Tác giả đã tiến hành phân loại từ tổ nói chung, xác định thành phần từ tổ, nêu công dụng cú pháp của từ tổ và đi sâu nghiên cứu các từ tổ trong tiếng Việt.

Ưu điểm của việc dựa vào từ tổ để giải thích cấu trúc câu đã góp phần giải đáp câu hỏi thành phần câu là gì? song nó vẫn không giải đáp được vấn đề danh sách và tiêu chí xác định các thành phần câu. Việc coi các bổ ngữ bắt buộc của động/ tính từ vị ngữ là thành phần phụ của từ tổ cũng cần phải xem xét lại. Việc coi cụm từ là trung tâm của ngữ pháp tiếng Việt, bao gồm tất cả các loại quan hệ cú pháp (cả quan hệ chính phụ và quan hệ chủ - vị) cũng có những mâu thuẫn, đặc biệt là nó không đúng với những trường hợp câu chỉ có một từ. Việc phân chia câu đơn và câu ghép theo số lượng cụm từ cũng chưa thuyết phục.

Ngoài lý thuyết từ tổ, Nguyễn Kim Thản còn có những nghiên cứu hết sức tỷ mỷ về động từ trong tiếng Việt (1963) trên quan điểm của ngữ pháp hình thức nói chung hay trường phái miêu tả nói riêng. Mặc dù có những vấn đề cần được bàn thêm, nhất là về tiêu chí phân loại động từ, song Động từ trong tiếng Việt đã thoả mãn phần nào mong ước của tác giả: Từ “khoảng trời” động từ tiếng Việt, có thể nhìn thấy được nhiều hiện tượng của cả “bầu trời” tiếng Việt (53, tr256).

Thompson L.C và phương pháp cấu trúc theo lối miêu tả (1965)

Rất gần gũi với Lekomcev Ju. K., Thompson L.C cũng trung thành với quan điểm phân tích câu theo thành tố trực tiếp của trường phái miêu tả Mỹ.

Bằng cách phân tích mà Thompson L.C cho rằng rất dễ thực hiện đối với người bản ngữ, câu được chia làm hai phần, một phần gồm các bổ ngữ tiêu điểm (tiêu ngữ) và phần kia, phần chính, là vị ngữ. Các bổ ngữ tiêu điểm của ông gồm bốn loại cơ bản: phương thức, thời gian, nơi chốn, chủ đề. Tiêu chí xác định tiêu ngữ là đứng trước vị ngữ. Tác giả cũng chủ trương không phân biệt thứ hạng của chủ ngữ và bổ ngữ, cho rằng việc đó là không cần thiết. Điểm quan trọng đối với ông là vai trò của tiểu từ thì trong việc đánh dấu tiêu ngữ và vị ngữ. Phải chăng đây là một gợi ý quý báu cho ngữ pháp chức năng trong việc kiếm tìm những tác tử đánh dấu sự phân biệt phần đề và phần thuyết trong câu tiếng Việt sau này?

Tuy nhiên, việc đánh đồng những thành phần câu không cùng chức năng ngữ nghĩa và ngữ pháp như chủ ngữ, trạng ngữ, thành phần chuyển tiếp… (cách dùng của ngữ pháp truyền thống) vào cùng một loại là tiêu ngữ chỉ nhờ vào một tiêu chí là đứng trước vị ngữ cũng cần phải bàn thêm. Việc xem thành phần chính của câu chỉ duy nhất một thành tố là vị ngữ cũng không phù hợp với câu tiếng Việt. Song, ngoại trừ những điều ấy, những nhận xét tinh tế về tiếng Việt và những thao tác làm việc mới mẻ mà tác giả mang đến là một đóng góp không nhỏ cho ngữ pháp Việt Nam.

Lê Xuân Thại và những vấn đề về phân tích câu theo cụm từ (1969)

Cùng với Nguyễn Kim Thản, Lê Xuân Thại tiếp tục ủng hộ cho quan điểm của lý thuyết từ tổ bằng bài báo Cụm từ và phân tích câu theo cụm từ (1969).

Tinh thần cơ bản của Lê Xuân Thại trong bài báo trên là lấy cụm từ làm trung tâm trong nghiên cứu cú pháp (đây là quan điểm chịu ảnh hưởng của lý thuyết từ tổ của Nga thế kỷ XIX). Việc phân loại câu cũng được tiến hành trên cơ sở số lượng cụm từ và mối quan hệ giữa các cụm từ. Theo tác giả, câu phải có ít nhất là một hoặc phải có nhiều từ kết hợp với nhau theo một quan hệ nhất định. Đây là mặt cấu trúc chiều ngang của câu… Nghiên cứu cụm từ tức là nghiên cứu về mặt cấu trúc chiều ngang của câu.

Những nghiên cứu sâu về cụm từ quả thực có đóng góp nhất định trên địa hạt ngữ pháp, nhất là việc khẳng định vị trí của một hình thức trung gian giữa từ và câu, một đơn vị khá quan trọng mà chưa được quan tâm đầy đủ trong hệ thống các đơn vị ngôn ngữ. Đứng trong bối cảnh của những năm 70 của thế kỷ trước mà xét, đây là một trong những ý tưởng mới mẻ và táo bạo. Song khó có thể nói rằng nó là một giải pháp triệt để trong việc phân loại câu và phản ánh cấu trúc cốt lõi của câu, đặc biệt đối với loại câu chỉ có một từ. Việc phân chia câu đơn/câu ghép hay câu bình thường/câu đặc biệt cũng chưa thực sự thuyết phục, nếu chỉ dựa trên tiêu chí cụm từ.

Lê Xuân Thại là một trong số những nhà ngữ pháp học khá tâm huyết với nghề. Ông viết sớm và khoẻ. Ông cũng đã từng góp sức cho sự ra đời của cuốn Ngữ pháp tiếng Việt 1983, từng trăn trở với trào lưu ngữ pháp chức năng hiện đại. Ông cũng đã có những cống hiến nhất định cho sự hình thành của ngữ pháp Việt Nam ngày hôm nay.

Lưu Vân Lăng và quan điểm ngữ đoạn tầng bậc có hạt nhân (1970)

Những năm đầu của thập kỷ 70, giới ngôn ngữ học xôn xao về một bài báo khá dài được công bố trên Tạp chí Ngôn ngữ. Bài báo ấy là tiếng nói của một hướng nghiên cứu ngữ pháp mới, có một cái tên khá trúc trắc và ít nhiều trừu tượng: Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt trên quan điểm ngữ đoạn tầng bậc có hạt nhân; tác giả của nó là GS Lưu Vân Lăng.

Tên gọi thì có vẻ phức tạp, song tựu trung lại, tinh thần của quan điểm ngữ đoạn tầng bậc có hạt nhân là: Trong các đơn vị khác nhau của ngữ pháp tiếng Việt (tiếng, từ, ngữ, cú, câu), ngoại trừ tiếng - đơn vị cơ bản thấp nhất trong cú pháp, các đơn vị còn lại đều có thể chia thành các tầng lớp và cấp bậc có hạt nhân. Hạt nhân được hiểu là các yếu tố chính, là cái lõi trong các đơn vị ấy. Muốn hiểu một câu, cần phân tích cấu trúc câu thành các đơn vị như trên.

Theo Lưu Vân Lăng, những năm 70, trên thế giới có khá nhiều khuynh hướng nghiên cứu ngữ pháp: ngữ pháp truyền thống, ngữ pháp hình thức, ngữ pháp cấu trúc, ngữ pháp tạo sinh…, song một tiếng nói chung về thành phần cấu tạo của các đơn vị ngữ pháp, quan hệ giữa các thành tố, biên giới, đặc trưng của chúng là chưa có. Quán triệt quan điểm tầng bậc có hạt nhân, ông đi sâu miêu tả từng đơn vị, trình bày quan điểm phân loại câu của mình, là dựa vào số lượng cú, chia câu thành hai loại: câu đơn và câu kép, trong đó câu đơn gồm một cú (có thể là đơn hay kép), còn câu kép thì gồm hai cú tách bạch. Lưu Vân Lăng cũng chủ trương dùng thuật ngữ đề ngữ - thuyết ngữ. Tuy nhiên, cặp thuật ngữ này, so với cặp thuật ngữ chủ – vị, chỉ khác nhau về tên gọi, mà không khác nhau về nội dung quan niệm.

Ưu điểm của quan điểm ngữ đoạn tầng bậc có hạt nhân là tính hệ thống khá cao. Nó thể hiện một cố gắng của tác giả là tìm cách gạt bỏ mọi hiện tượng trung gian, quy tất cả về những khuôn mẫu cố định. Đó là một hệ thống xuyên suốt các đơn vị ngữ pháp, trong đó các đơn vị đều có các yếu tố hạt nhân và yếu tố phụ trợ. Nó cũng phản ánh quan hệ tôn ti của các đơn vị ngôn ngữ. Âm hưởng của quan điểm này còn dội vào Ngữ pháp tiếng Việt 1983, đặc biệt ở tên gọi đề ngữ - thuyết ngữ và vấn đề tính thuyết ngữ của câu.

Những nghiên cứu tiếp theo của Lưu Vân Lăng trong lĩnh vực ngữ pháp là một sự kiên trì theo đuổi khuynh hướng này. Ngoài ra, ông cũng có những đóng góp trên phương diện từ vựng học và từ điển học, phương diện thuật ngữ và chuẩn hoá tiếng Việt. Tất cả làm nên một Lưu Vân Lăng riêng biệt, đầy cá tính và trí tuệ. Ông là một trong những giáo sư đầu ngành, có đóng góp đáng kể vào quá trình phát triển của ngành Ngữ pháp học nước ta.

V. X Panfilov và xu hướng hình thức hoá trong nghiên cứu cú pháp tiếng Việt (1980)

V. X Panfilov là nhà Việt ngữ học người Nga có rất nhiều đóng góp cho việc nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt. Từ những năm 70, 80 của thế kỷ trước, với các bài báo bằng tiếng Nga, V. X Panfilov đã tỏ ra rất quan tâm tới cái ngôn ngữ vốn khác xa về loại hình với tiếng mẹ đẻ của mình. Năm 1993, ông còn viết cả một cuốn sách dày về cơ cấu ngữ pháp tiếng Việt. Gần đây, ông lại hăng hái tham gia vào cuộc tranh luận với Cao Xuân Hạo về vấn đề thời, thể. Quan điểm của ông khá sâu sắc và rất đáng để cho những nhà nghiên cứu tiếng Việt lưu tâm.

Xu hướng hình thức hoá mà V. X Panfilov theo đuổi có lẽ bắt nguồn từ S.E. Jakhontov. Các thủ pháp phân xuất, các thao tác được áp dụng một cách triệt để để nhận diện các thành phần câu và cấu trúc nòng cốt của câu. Quan hệ ngữ nghĩa và quan hệ ngữ pháp được phân biệt một cách hết sức rạch ròi… Sau này, Nguyễn Minh Thuyết cũng áp dụng xu hướng hình thức hoá để nghiên cứu các thành phần câu tiếng Việt, đặc biệt là những nghiên cứu về thành phần chủ ngữ.

Trong Cơ cấu ngữ pháp tiếng Việt, V. X Panfilov đã trình bày trên diện rộng các vấn đề: hình vị, từ, những khái niệm xuất phát về cú pháp (các dạng quan hệ, cụm từ, câu, phát ngôn, phương tiện ngữ đoạn, phương tiện cải biến…), vấn đề từ loại, vấn đề các kiểu câu, vấn đề cú pháp giao tiếp… Việc phân loại câu tiếng Việt thành ba loại: câu đơn, câu có thành phần lồng ghép và câu phức là rất gần gũi với cách phân loại hiện nay của chúng ta: câu đơn, câu phức và câu ghép. Các bước diễn giải từ câu đơn đến câu phức khá hấp dẫn và thuyết phục. Cách trình bày của ông có phần khó hiểu song những nghiên cứu của một người nước ngoài như ông về Việt ngữ là rất đáng được ghi nhận.

Hoàng Trọng Phiến và những vấn đề về câu tiếng Việt (1980)

Cho đến thập kỷ 80, việc nghiên cứu ngữ pháp của chúng ta nói chung đã phát triển thành một hệ thống, một bộ môn độc lập với những kết quả nhất định. Nhưng trong lĩnh vực cú pháp, vấn đề phân loại câu vẫn chưa tìm được tiếng nói chung. Phải đến Hoàng Trọng Phiến, vấn đề này mới được giải quyết một cách thoả đáng. Đặc biệt, tiêu chí phân loại câu của tác giả là hợ

0