13/01/2018, 10:12

Thuyết minh về một di tích lịch sử – Văn hay lớp 9

Thuyết minh về một di tích lịch sử – Văn hay lớp 9 Thuyết minh về di tích lịch sử – Bài số 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Phú Thọ Trong số hàng nghìn di tích lịch sử của Hà Nội, hơn 500 di tích đã được xếp hạng, thì Văn Miếu – Quốc Tử Giám là một di tích gắn liền với sự thành ...

Thuyết minh về một di tích lịch sử – Văn hay lớp 9

Thuyết minh về di tích lịch sử  – Bài số 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Phú Thọ

Trong số hàng nghìn di tích lịch sử của Hà Nội, hơn 500 di tích đã được xếp hạng, thì Văn Miếu – Quốc Tử Giám là một di tích gắn liền với sự thành lập của kinh đô Thăng Long dưới triều Lý, đã có lịch sử gần nghìn năm, với quy mô khang trang bề thế nhất, tiêu biểu nhất cho Hà Nội và cũng là nơi được coi là biểu tượng cho văn hóa, lịch sử Việt Nam.

Theo Đại Việt sử kí, vào mùa thu năm Canh Tuất – 1070, Vua Lý Thánh Tông đã cho khởi công xây dựng Văn Miếu để thờ các bậc tiên thánh tiên hiền, các bậc nho gia có công với nước, trong đó có thờ Khổng Tử – người sáng lập ra nền nho giáo phương Đông và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy tiêu biểu đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam. Sáu năm sau – năm 1076, Vua Lý Nhân Tông quyết định khởi xây Quốc Tử Giám – một trường Nho học cao cấp nhât hồi bây giờ nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước.

Đây là một sự kiện có ý nghĩa quan trọng đánh dấu sự lựa chọn đầu tiên của triều đình phong kiến Việt Nam về vấn đề giáo dục, đào tạo con người Việt Nam theo mô hình Nho học châu Á. Hiện trong di tích còn có 82 tấm bia đá, trên đó được khắc tên của 1306 vị đã từng đỗ tiến sĩ trong 82 kì thi từ giữa năm 1484 và 1780. Cũng trên các tấm bia này đã ghi lại người đỗ tiến sĩ cao tuổi nhất trong lịch sử là ông Bàn Tử Quang. Ông đỗ tiến sĩ khi 82 tuổi. Người trẻ nhất là Nguyễn Hiền, quê Nam Trực (Nam Định), đậu trạng nguyên năm Đinh Mùi niên hiệu Thiên ứng Chính Bình thứ 16 (tức năm 1247) dưới triều Trần Thái Tông khi đó mới 13 tuổi. Từ đó, Văn Miếu cùng Quốc Tử Giám – được coi là trường đại học đầu tiên của Việt Nam đã tồn tại đến thế kỉ XIX.

Tọa lạc trên khuôn viên hơn 54.000m2, khu di tích Văn Miếu – Quôc Tử Giám nằm giữa bốn dãy phố, cổng chính ở đường Quốc Tử Giám (phía Nam), phía Bắc giáp đường Nguyễn Thái Học, phía Đông giáp phô" Tôn Đức Thắng, phía Tây là phố Văn Miếu. Bên ngoài có trường vây bôn phía, bên trong chia làm 5 khu vực. Khu vực 1 gồm có Văn hồ (hồ văn); Vàn Miếu môn, tức cổng tam quan ngoài cùng, cổng có 3 cửa, cửa giữa to cao và xây hai tầng, tầng trên có ba chữ Văn Miếu môn. Khu vực thứ hai, từ cổng chính đi thẳng vào cổng thứ ba chữ Văn Miếu môn. Khu vực thứ hai, từ cổng chính đi thẳng vào cổng thứ hai là Đại Trung môn, bên trái là Thánh Dực môn, bên phải có Đạt Tài môn. Tiếp trong là Khuê Văn Các (được xây dựng vào năm 1805). Khu vực 3 là giếng Thiên Quang (Thiên Quang Tỉnh có nghĩa là giếng trời trong sáng). Khu vực này có 82 bia Tiến sĩ dựng thành hai hàng, mặt bia quay về giếng, là một di tích thật sự có giá trị. Qua cửa Đại Thành là vào khu vực thứ 4, cửa Đại Thành cũng mở đầu cho những kiến trúc chính như hai dãy Tả Vu và Hữu Vu, chính giữa là Tòa Đại Bái đường, tạo thành một cụm kiến trúc hình chữ Ư cổ kính và truyền thống. Xưa, đây là nơi thờ những vị Tổ đạo Nho.

Khu trong cùng là nơi giảng dạy của trường Quốc Tử Giám thời Lê, nhiều thế hệ nhân tài “nguyên khí của nước nhà” đã được rèn giũa tại đây. Khi nhà Nguyễn dời trường Quốc học vào Huế, nơi đây dùng làm đền thờ Khi Thánh (cha mẹ Khổng Tử), nhưng ngôi đền này đã bị hư hỏng hoàn toàn trong chiến tranh. Điều đáng mừng là trong năm 2000, Chính phủ Việt Nam đã quyết định khởi công xây dựng Thái học đường với giá trị 22 tỉ đồng. Công trình này mang tính yêu cầu của thời đại, đó là công trình mới nhằm tôn vinh nền văn hóa của dân tộc. Những người đời sau đến đây có được những giây phút tưởng niệm những người đã có công sáng lập và xây dựng nền giáo dục Viêt Nam.

Trải qua bao thăng trầm và những biến cố của lịch sử, Văn Miếu – Quốc Tử Giám không còn nguyên vẹn như xưa. Những công trình thời Lý, thời Lê hầu như không còn nữa. Song Văn Miếu – Quốc Tử Giám vẫn giữ nguyên được những nét tôn nghiêm cổ kính của một trường đại học có từ gần 1000 năm trước của Hà Nội, xứng đáng là khu di tích văn hóa hàng đầu và mãi là niềm tự hào của người dân Thủ đô khi nhắc đến truyền thống ngàn năm văn hiến của Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội.

Thuyết minh về di tích lịch sử  – Bài số 2

Chùa Thầy là một cổ tự rất nổi tiếng trên miền Bắc Việt Nam thuộc Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc Hà Nội. Chùa Thầy được xây dựng từ thời vua Lý Nhân Tông (1072 – 1127) gắn liền với huyền tích và công đức của Thiền sư Từ Đạo Hành.

Thời gian đầu chỉ là cái am nhỏ ẩn mình bên hang núi. Sau nhiều lần tu tạo, chùa Thầy ngày một thêm kì vĩ. Khu chính điện của chùa tọa lạc trên một khuôn viên hình chữ nhật, dài 60m, rộng 40m, gồm ba toàn nhà to, dài xây song song hình chữ tam. Hai bên tòa chính điện là gác chuông và gác trống nhô cao.

Chùa Thầy có hàng trăm pho tượng sơn son thếp vàng, khói hương nghi ngút suốt đêm ngày. Chùa Thượng có tượng Di Đà Tam Tôn, Bách hoa Đài (bệ đá trăm hoa), ngjt oàn thân Thiền sư Từ Đạo Hạnh nhập định trên toàn sen vàng.

 Rời chùa Cả, du khách, Phật tư đi qua Nguyệt Tiên Kiều và cổng Bất nhi Pháp môn để lên núi Sài Sơn. Du khách leo qua nhiều bậc đá, đi vào chùa Cao thắp hương, đến hang Thánh Hóa, nơi Từ Đạo Hạnh hóa Phật. Đến thăm hang Các Cớ:

Dân gian tin rằng trai tơ, gái tơ có vào thăm hang Cắc Cớ một lần thì mới có thể tìm được tình duyên đẹp, hạnh phúc ấm êm. Đứng trên đỉnh núi Sài Sơn nhìn ra bốn phía là thôn xóm lớp lớp gần xa, là màu xanh bát ngát của đồng lúa, là màu trắng lấp lánh của sông Đáy hiền hòa uốn khúc… Cảnh vật sầm uất, dạt dào sức sống của một miền quê thanh bình.

Chùa Thầy còn có Chợ Trời (chợ cõi âm), nơi cầu may, cầu lộc cho người trần. Bài thơ " Chợ Trời Sài Sơn" được nhiều người truyền tụng:

Hóa công xây đắp đã bao đời,

Nọ cảnh Sài Sơn có chợ Trời.

Buổi sớm gió đưa, trưa nắng đứng,

Ban chiều mây họp, tối trăng chơi.

Bày hàng hoa quả, tư mùa sẵn,

Mở phố giang sơn, bốn mặt ngồi.

Bán lợi mua danh nào những kẻ,

Chẳng lên mặc cả một đôi lời.

Hồ Xuân Hương.

Phong cảnh chùa Thầy rất đẹp, có sơn thủy hữu tình, gắn liền với nhiều huyền tích, huyền thoại. Lễ hội chùa Thầy là một lễ hội dân gian lớn nhất, đông vui nhất trong mùa xuân trên miền Bắc nước ta. Dân gian vẫn lưu luyến câu ca, câu hát:

"  Nhớ ngày mùng Bảy tháng Ba,
Trở vào hội Láng, trở ra hội Thầy" 

Thuyết minh về di tích lịch sử  – Bài số 3

Chùa Trăm Gian còn được gọi là chùa Sở, được xây dựng từ đời vua Lý Cao Tông (1185). Chùa tọa lạc trên một quả đồi cao chứng 50m, thuộc dãy núi Tiên Lữ (còn gọi là Mã Sơn), xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc Hà Nội.

Cảnh quan của chùa Trăm Gian rất u tích, mái chùa che rợp bởi nhiều lớp, nhiều tầng tán là xanh sum suê của hàng trăm cây cổ thụ, cây gỗ quý như cây lim, cây trắc… Đặc biệt có gần 30 cây thông xanh tốt được trồng hàng trăm năm nay.

Chùa Trăm Gian được làm theo kiểu kiến trúc thời Lý – Trần trong thế kỉ 12. Quy mô đồ sộ, rất độc đáo: cứ bốn cột là một gian ; chùa có cả thảy 100 gian.

Phía ngoài có bốn cột trụ và hai quá dùng làm nơi đánh cờ tướng trong ngày hội. Nhà Giá Ngự nhìn ra ao sen. Tam quan còn gọi là gác chuông, kiến trúc theo kiểu hai tầng chồng diêm tám mái bằng gỗ quý, cao khoảng 8m. Trên gác chuông treo một quả chuông cao 1,4m, đường kính 0,6m, đúc năm Cảnh Thịnh thứ hai (1794).

Đi sâu vào là chùa chính. Hai vị Hộ Pháp (Ông Thiện, Ông Ác) vô cùng đồ sộ, oai nghiêm đứng trấn giữ. Gần đấy có Tòa Thiêu Hương. Trong cùng là hai lớp thượng điện thờ Phật. Nối tiếp nhà Tổ là một ngôi nhà 16 cột làm theo kiểu bốn mái, đao cong với hình tượng linh vật rướn cánh tung bay lên trời xanh. Ở đây có treo một cái trống to, mặt trống có đường kính 1m, tang trống màu son, một chiếc khánh đồng dài 1,2m, cao 0,6m, đúc năm Cảnh Hưng thứ mười (1750).

Chùa Trăm Gian hiện còn trên 100 tượng Phật bằng gỗ hoặc bằng vàng tâm, hoặc bằng đất sơn son thếp vàng. Có những pho tượng quý hiếm như tượng Tuyết Sơn, 18 vị La Hán, Phật Quan Thế Âm. Còn có tượng Quan Đô (Đô đốc Đông) – vị anh hùng một thời Tây Sơn đã tiêu diệt hàng vạn giặc Thanh xâm lược (1789) ở Đống Đa.

Chùa Trăm Gian gắn liền với bao huyền tích huyền thoại. Chùa từng bị giặc Minh đốt phá tan hoang, đã được trùng tu tôn tạo nhiều lần. Chùa Trăm Gian là một chùa cổ, một danh lam thắng cảnh của xứ Đoài, một di tích văn hóa – lịch sử của dân tộc.

Ngày Mồng 4 tháng Giêng hằng năm là ngày lễ hội chùa Trăm Gian kéo dài trong 10 ngày, có hàng nghìn hằng vạn Phật tử và du khách gần xa kéo về dự lễ hội.

Thuyết minh về di tích lịch sử  – Bài số 4

Một trong số rất nhiểu những di tích lịch sử về Bác kính yêu mà chúng ta phải kể đến đó là Bến Nhà Rồng. Bến cảng Nhà Rồng lưu lại cho dân tộc Việt Nam một kỷ niệm thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Nơi Người đã đặt những bước chân đầu tiên trên hành trình ba mươi năm đi tìm đường cứu nước cho dân tộc.

Bến Nhà Rồng xưa là thương cảng lớn nằm bên sông Sài Gòn. Trụ sở là một tòa nhà lớn, cao hai tầng do Công ty Vận tải đường biển của Pháp là Messageries Maritimes xây dựng vào năm 1863, dùng làm nơi bán vé tàu và làm nơi ở cho người quản lý. Đến cuối năm 1899, công ty mới được phép xây cất bến để tàu cập bến. Bến được lót bằng ván dày, đặt trên trụ sắt dọc theo mé sông. Mỗi nơi neo đậu tàu cách nhau 18m. Bề ngang của mỗi bên vào phía trong bờ là 8m. Từ bờ ra bến có cầu rộng 10m. Con đuờng chạy sát bên cảng gọi là bến Khánh Hội. Bảo tàng – trước đây là trụ sở cua Tổng Công ty vận tải Hoàng đế – một trong những công trình đầu tiên do thực dân Pháp xây dựng sau khi chiếm được Sài Gòn.

Ngôi nhà được xây dụng từ giữa năm 1862 đến cuối năm 1863 hoàn thành với lối kiến trúc phương Tây nhưng trên nóc nhà gắn hai con rồng châu đầu vào mặt trăng theo mô tip "Lưỡng long chầu nguyệt" – một kiểu kiến trúc quen thuộc của đình chùa Việt Nam. Với kiểu kiên trúc độc đáo đó nên trụ sở của Tổng Công ty vận tài Hoàng đế còn được gọi là Nhà Rồng và bến cảng cũng mang tên là Bến cảng Nhà Rồng. Năm 1955, sau khi thực dân Pháp thất bại ở Việt Nam, thương cảng Sài Gòn được chuyến giao cho chính quyền miền Nam Việt Nam quản lý. Họ đã cho tu bổ lại mái ngôi nhà và thay thế hai con rồng cũ bằng hai con rồng khác với tư thế quay đầu ra. Năm 1965, ngôi Nhà Rồng do quân đội Mỹ sử dụng làm trụ sở của Cơ quan tiếp nhận viện trợ quân sự Mỹ. Năm 1975, sau ngày đất nước thống nhất, Nhà Rồng – biểu tượng của cảng Sài Gòn – thuộc Cục đường biển Việt Nam quản lý.

Ngày nay, mọi ngưòi biết đến Bến Nhà Rồng là di tích lịch sử nổi tiếng ở Thành phố Hồ Chí Minh, được đánh số 01, đường Nguyễn Tất Thành, quận 4. Nếu đứng ở bến Bạch Đằng hay bến đò Thủ Thiêm nhìn sang bên kia sông Sài Gòn, bạn sẽ thấy nổi lên trên nền trời gần cầu Khánh Hội tòa nhà cổ kính, kiểu cách vừa Âu, vừa Á, gần đó là những tàu biển mang cò đủ quốc tịch neo đậu san sát, cùng với những giàn cần cẩu hiện đại, cần mẫn bốc xếp hàng hóa lên xuống cảng.

Với ngưới Việt Nam, Bến Nhà Rồng thực sự là một địa chi lưu giữ những ki niệm đẹp về Bác. Bến cảng Nhà Rồng chính là một trong những cột mốc đánh dấu bước ngoặt tạo nên lịch sử cho dân tộc ta. Sau khi rời trường Dục Thanh ở Phan Thiết, thầy giáo Nguvễn Tất Thành xin vào học trường Bách nghệ chuyên đào tạo công nhân tại Sài Gòn. Ngày 5/6/1911, với cái tên anh Ba, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã xuống tàu Admiral Latouche Tréville tại Bến Nhà Rồng xin làm chân phụ bếp, để có điều kiện sang châu Âu và bôn ba khắp thế giới tìm đường cứu nước.

Để ghi nhớ sự kiện Bác từ bến cảng Sài Gòn, để đi ra nước ngoài tìm đường cứu nước, sau ngày giải phóng đất nước Nhà Rồng được giữ lại làm Di tích Lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nga 2/9/1979 – nhân kỷ niệm 10 năm ngày mất của Người – nơi đây đã mở cửa đón khách tham quan phần trưng bày vẽ "Sự nghiệp tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hổ Chí Minh (1890 – 1945)". Sau đó ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định thành lập "Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh – Bảo tàng Hồ Chí Minh – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh". Tòa nhà Bên Nhà Rồng hiện nay vẫn giữ nguyên kiên trúc cũ. Trên tổng diện tích quy hoạch 12.000m trừ diện tích xây dựng, còn lại tràn ngập màu xanh của đủ loại cây cỏ quý hiếm, hội tụ từ các địa phương. Đó là tâm lòng thành kính của đổng bào cả nước và khách nước ngoài thành kính dâng lên Người – Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Xung quanh bên, có tới ngót 400 gốc cây các loại quanh năm tươi xanh.

Trong gần 40 chậu Mai chiếu thủy, có chậu tuổi thọ tới trên 200 năm. Một cây đa Tân Trào do chính cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh mang từ miền Bắc và trồng. Đặc biệt có cây bồ đề được tia xén rất công phu do Tổng thống Ấn Độ trồng lưu niệm trong chuyến thăm chính thức nước ta vào năm 1991. Ngoài ra còn có một số cây Hoàng Nam do sứ quán Thái Lan tặng. Bảo tàng có nhiệm vụ nghiên cứu sưu tầm, bảo quản, trưng bày, tuyên truyền về cuộc đời và sụ nghiệp cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hổ Chí Minh trên cơ sở các tư liệu, hiện vật của Bảo tàng. Đặc biệt nhấn mạnh đến sự kiện Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước và mối quan hệ của Bác đối với nhân dân Sài Gòn và nhân dân miền Nam Việt Nam. Bảo tàng còn cung cấp cho người xem những thông tin lịch sử quý báu khái quát tình hình đất nước thời kháng chiên chống Pháp và hình ảnh của Hồ Chí Minh kính yêu.

Đến với bảo tàng ta có thêm nhiều hiểu biết về cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác qua phòng tường niệm: tư liệu về hệ thống các đền thờ Bác ở Nam Bộ, tác phẩm văn học nghệ thuật về Bác, quê hương và gia đình Bác. Bác trong quá trình tổ chức và lãnh đạo cách mạng Việt Nam thắng lợi – thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; tiếp tục đấu tranh giữ vững chính quyền cách mạng, kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, kết thúc bằng chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Lãnh đạo nhân dân cả nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời tiến hành cách mạng dân tộc Dân chủ ở miền Nam, hoàn thành thống nhất nước nhà. Những hoạt động của nhân dân cả nước thực hiện di chúc của Chủ tịch Hổ Chí Minh, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miên Nam, thống nhất đất nước. 30 năm thực hiện Di chúc của Chủ Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh và sự nghiệp đổi mới đất nước…

Ngoài những hoạt động chính, Bảo tàng còn tiến hành những hoạt động tuyên truyền giáo dục rộng rãi nhằm làm cho tư tưởng và đạo đức của Hồ Chủ tịch đi sâu vào quần chúng nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Đó là các hoạt động của tổ chức các Hội nghị khoa học, các cuộc tọa đàm giữa các thế hệ, nói chuyện chuyên đề về Bác, chiếu phim, thực hiện sưu tập những tư liệu hồi ký của Bác, các ấn phẩm về Bảo tàng, tổ chức kết nạp Đảng, Đoàn, Đội; tổ chức thi tiếng hát về Bác Hồ… là nơi hội họp, gặp gỡ của các tổ chức, đoàn thể đến sinh hoạt truyền thông, học tập và vui chơi; là nơi ra quân của nhiều phong trào cách mạng sôi nổi của thành phố.

Từ đó đến nay, Bảo tàng Hồ Chí Minh – Bến Nhà Rồng đã đón tiếp hàng chục triệu lượt khách trong và ngoài nước vào tham quan. Bến Nhà Rồng hôm là một địa chỉ đỏ, rực sáng trong trái tim, khối óc của con người Việt Nam và những ai đã một lần đến đây.

Thuyết minh về di tích lịch sử  – Bài số 5

Về thời Lý – Trần, Kiếp Bạc thuộc hương Vạn Kiếp, lộ Lạng Giang, nay thuộc xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.

Kiếp Bạc là một địa bàn, một vùng chiến lược trọng yếu của Đại Việt trong ba lần đánh thắng giặc Nguyên- Mông xâm lược. Là một vùng thắng địa, sông ngòi chằng chịt, núi non trập trùng. Có núi Rồng hình tay ngai. Phía Đông Nam là vùng núi Phả Lại, núi Phượng Hoàng, Côn Sơn. Có vụng Trần Xá, tháng 11 năm 1282 họp Hội nghị Vương hầu bàn kế sách đánh giặc Nguyên – Mông.

Phía Tây Vạn Kiếp giáp sông Thương, một nhánh của sông Lục Đầu mà thời Trần gọi là sông Bình Than. Giữa sông có Cồn Kiếm; phía bắc có thung lũng Vạn Yên và sông Vang. Gần đấy là núi Rồng, núi Nam Tào, núi Bắc Đẩu. Địa thế hiểm trở, có thể hội sư hàng chục hàng vạn tinh binh, hàng ngàn chiến thuyền.

Từ Kiếp Bạc có 6 đường sông và đường bộ tỏa về các phía như Thanh Long, Bạch Đằng, Vân Đồn, Hàm Tử, Chương Dương, ải Nam Quan….Kiếp Bạc là vùng trọng yếu về quân sự, tiến có thể công, thoái có thể thủ. Từ Kiếp Bạc, Thương tướng Trần Quang Khải mới cấp tốc hành binh lập nên chiến công Hàm Tử chám đầu Toa Đô. Từ Kiếp Bạc, Phiêu kị tướng quân Trần Khánh Dư mới kéo thẳng ra Vân Đồn đánh tan đội binh lương chiến thuyền Trương Văn Hổ. Và cũng từ Kiếp Bạc, Trần Quốc Tuấn mới kéo đại binh thẳng tiến đến sông Bạch Đằng, bắt sống tướng Ô Mã Nhi, tiêu diệt hàng vạn giặc.

Đền Kiếp Bạc là nới an giấc ngàn thu của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Ngày 20 tháng 8 năm Hưng Long thứ tám (1300), ngài đã quy tiên.

Đền Kiếp Bạc là một di tích văn hóa – lịch sử của Đại Việt. Câu đối, hoành phi, tượng thờ sơn son thếp vàng chói lọi. Hàng chữ lớn " Vạn cổ thử giang sơn". Đôi câu đối chói lọi: " Hào khí Đông A":

Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí;
Lục Đầu vô thủy bất thu thanh.
(Vạn Kiếp núi lồng hình kiếm dựng;
Lục Đầu vang dậy tiếng quân reo.)

Lễ hội Kiếp Bạc từ 16 đến 20 tháng 8 âm lịch hàng năm. Hàng vạn người đã nô nức kéo về Kiếp Bạc, để tưởng niệm người anh hùng thưở Bình Nguyên, cũng để nêu cao tinh thần: "Sát Thát".

Hồng Loan tổng hợp

Từ khóa tìm kiếm:

  • thuyet minh ve mot di tich lich su
  • https://baitaphay com/thuyet-minh-ve-mot-di-tich-lich-su-van-hay-lop-9-13632 html
  • thuyet minh ve di tich lich su que em
  • thuyet minh ve 1di tich lsu
  • thuyet minh ve mot di tich lich hoa

Bài viết liên quan

  • Thuyết minh về di tích lịch sử Văn Miếu – Văn hay lớp 9
  • Thuyết minh về di tích lịch sử Đền Hùng – Văn hay lớp 9
  • Miêu tả vẻ đẹp của núi rừng quê hương em – Văn hay lớp 7
  • Thuyết minh về hoa mai – Văn hay lớp 8
  • Thuyết minh về một cảnh quan của đất nước – Văn hay lớp 9
  • Nghị luận xã hội về câu nói: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia – Văn hay lớp 12
  • Miêu tả một bức tranh – Văn hay lớp 7
  • Thuyết minh về mì Quảng – Văn hay lớp 12
0