Thuyết minh về cây lúa – Văn mẫu lớp 8
Thuyết minh về cây lúa – Văn mẫu lớp 8 4.8 (96%) 380 votes Thuyết minh về cây lúa – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An Việt Nam đất nước ta ơi Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn Đất nước Việt Nam – cái nôi của nền văn minh lúa nước, bên mỗi xóm thôn bản làng, ...
Thuyết minh về cây lúa – Văn mẫu lớp 8 4.8 (96%) 380 votes Thuyết minh về cây lúa – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An Việt Nam đất nước ta ơi Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn Đất nước Việt Nam – cái nôi của nền văn minh lúa nước, bên mỗi xóm thôn bản làng, những cánh đồng ...
Thuyết minh về cây lúa – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An
Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Đất nước Việt Nam – cái nôi của nền văn minh lúa nước, bên mỗi xóm thôn bản làng, những cánh đồng xanh thẳm trải dài tít tận chân mây như dấu hiệu cho mọi du khách nhận ra đất nước nông nghiệp với sự gắn bó của con người cùng cây lúa xanh tươi.
Lúa là cách gọi thông thường không biết tự bao giờ trong từ điển Việt Nam, để chỉ loài cây lương thực chính trong ươm mầm từ những hạt thóc vàng căng mẩy. Hạt thóc ngâm nước ủ lên mầm gieo xuống lớp bùn sếch sang trở thành những cây mạ xanh non. Sau khi làm đất cày bừa kĩ, mạ non được bó lại như thằng bé lên ba con còn theo mẹ ra đồng và được cắm xuống bùn sâu qua bàn tay chăm sóc của người nông dân từng ngày, từng giờ lên xanh tươi tốt thành những ruộng lúa mênh mông bờ nối bờ thăm thẳm.
Lúa được phát triển theo ba giai đoạn chính: Giai đoạn mẹ non, mảnh mai yếu ớt như em bé sơ sinh run rẩy trước nắng mai hay gió bão lạnh lẽo. Những ngày mùa đông buốt giá, gieo mạ rồi để chuẩn bị cho vụ chiêm xuân, chẳng có người nông dân nào không xuýt xoa thương cho đám mạ con phải chịu cảnh rét buốt, thế là bao túi ni lông che kín bốn xung quanh bờ thửa ngăn cho cái rét không làm lạnh chân mạ.
Nắng hửng trời quan, bà già mùa đông mệt mỏi đi nghỉ ngơi nhường chỗ cho chị mùa xuân nhảy múa ca hát cùng lũ chim trên cành, bà con xã viên tưng bừng phấn khởi sau cái tết đón năm mới cùng với mạ non hồi sức vẫn kiên nhẫn vượt qua rét mướt, đã nô nức ra đồng làm việc. Họ đố nhau về bó mạ:
Vừa bằng thằng bé lên ba
Thắng lưng chon cón chạy ra ngoài đồng.
Thế là người cày người cấy, trâu bò làm bạn với nhà nông, chỉ trong vòng một tuần những cánh đồng đất ải trắng trước đây đã thành những ruộng lúa xanh non. Lúa cứ thế lớn lên dưới bàn tay chăm sóc nâng niu của các bác nông dân, trưởng thành đến thì con gái, đẻ nhánh sinh sôi thành những khóm to chật ruộng. Rì rào rì rào… lúa thì thầm ào ào trong gió như kể chuyện ngàn xưa. Những chiếc lá lúa dài giống hình lưỡi lê nhưng yểu điệu duyên dáng như trăm ngàn cánh tay đùa giỡn với gió, sóng lúa nhấp nhô giữa buổi chiều hạ hay nắng sớm mùa xuân gợi bức tranh đồng quê thi vị mượt mà. Đó là đề tài quen thuộc của thơ và nhạc du dương:
Việt Nam đất nước quê hương tôi
Mía ngọt chè xanh qua những nương đồi
Đồng xanh lúa rập rờn biển cả…
Chẳng mấy mốc ba tháng nông nhàn đã qua, lúa vào đòng làm hạt, mùi thơm của lúa nếp, của gạo mới thoang thoảng đâu đây. Khắp cánh đồng người ta chỉ thấy một màu vàng rực tươi rói, những bông lúa hạt đều tăm tắp uốn cong như lưỡi câu báo hiệu một mùa vàng bội thu. Ngày mùa cả làng quê toàn màu vàng, ngoài đồng lúa vàng xuộm, dưới sân rơm và thóc vàng ròn, chú cún vàng nhảy nhót lăng xăng như chia sẻ cùng chủ. Ai mà chẳng vui khi thành quả lao động của mình đến ngày được gặt hái.
Cứ thế một hay hai vụ lúa trở thành cây lương thực chính của người nông dân.: Vụ chiêm xuân từ tháng giêng đến tháng 4, tháng 5; vụ mùa từ tháng 6 đến tháng 9, tháng 10. Cây lúa đã đem đến cho đất nước một nguồn thu lớn, mỗi hécta cho ba tấn thóc, không chỉ là cung cấp lương thực đáp ứng nhu cầu của nhân dân trong nước mà nó còn là nguồn xuất khẩu gạo. Chúng ta tự hào có những cánh đồng lúa thóc quê hương như cánh đồng năm tấn ở Thái Bình, Đồng Tháp Mười ở đồng bằng Sông Cửu Long.
Năm tháng trôi qua bước sang thế kỉ XXI, Việt Nam đi dần vào xu thế công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng hình ảnh cây lúa và giá trị tiềm năng của nó vẫn là vị trí số một trong quá trình phát triển đất nước chẳng thế mà nó được lấy làm biểu tượng của các nước trong khối ASEAN như một báu vật quý.
Thuyết minh về cây lúa nước – Bài làm 2
Từ xa xưa cây lúa đã gắn bó với nhân dân ta, đi từ Bắc vào Nam những cánh đồng lúa xanh mướt mới đẹp làm sao? cây lúa đã được xuất hiện rất nhiều trong những bài văn, bài thơ hay, là nguồn cảm hứng sáng tạo không ngừng của nhiều họa sỹ. Từ thời ông cha chúng ta nghề trồng lúa đã gắn bó và là món ăn tinh thần không thể thiếu, trước kia trồng lúa là nghề chính của ông cha ta, ngày này với sự phát triển của công nghiệp hóa, điện đại hóa, đất nước có nhiều sự đổi thay, nhưng cây lúa vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống của người nông dân Việt Nam, nước chúng ta là một trong những nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới và chất lượng gạo đạt chất lượng cao, là nước có ngành nông nghiệp lúa nước lớn nhất thế giới.
Câu ca dao bao đời nay người dân chúng ta vẫn dành để nói về cây lúa:
” Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”
Để có thể thu hoạch lúa là cả một quá trình vất vả của những người nông dân, gia đình tôi có truyền thống làm nghề trồng lúa, từ thời Cụ tôi, ông tôi, bố tôi đều đi theo nghề trồng lúa nước này, từ bé được gắn bó với những cây lúa và những người nông dân thật thà chất phát làm tôi thêm yêu cuộc sống, yêu con người hơn. Tôi còn nhớ hồi nhỏ được ngồi với ông nội, ông lại kể chuyện cho tôi nghe, ông nói hồi xưa đất trồng lúa còn khô cằn lắm không được tơi xốp như bây giờ, lúc đó những người nông dân đã cày bừa, cố gắng vượt qua sự khắc nghiệt của thời tiết và thiên nhiên để trồng ra cây lúa xanh mướt và thu hoạch được những hạt gạo dẻo thơm.
Nước ta có rất nhiều loại giống lúa khác nhau tùy theo từng vùng miền , khí hậu, mỗi vùng miền thích hợp với các loại lúa khác nhau, thích hợp để trồng lúa nhất là những vùng nước ngọt, những vùng đất quá mặn hoặc quá phèn cây lúa khó có thể lên được. Có rất nhiều loại lúa như lúa nếp, lúa tẻ, lúa cạn, lúa nước nông, lúa nước sâu, chủ yếu được chia ra là cây lúa nếp và lúa tẻ, lúa nếp thường để làm bánh, thổi xôi, còn lúa tẻ là lúa dùng để ăn trong các bữa cơm hàng ngày… giống lúa cũng có nhiều loại, trước kia ông cha ta hay trồng giống lúa NN8, ngày nay thì miền Nam hay trồng giống IR76, miền Bắc thì trồng các loại giống C70, DT10, A20…
Để trồng được cây lúa thì người nông dân phải giải qua rất nhiều công đoạn, từ gieo mạ, sau đó đến cấy mạ, và rồi chăm bẵm, tưới tắm, nhổ cỏ, phun sâu… mới có được những hạt gạo dẻo thơm chúng ta ăn hàng ngày.
Ở nước ta có 3 vụ lúa chính đó là vụ Đông- Xuân, vụ Hè – Thu, vụ lúa mùa, những đặc sản từ cây lúa mang đậm nét truyền thống dân tộc đó là bánh chưng, bánh dày, theo truyết xa xưa Lang Liêu được truyền ngôi do làm bánh chưng và bánh dày dâng lên vua, Lang Liêu được thần báo mộng trong giấc mơ ” Trong đất trời không gì quý bằng hạt gạo, chỉ có gạo mới nuôi sống con người và không bao giờ chán, các thứ khác tuy ngon nhưng hiếm, người không làm ra được” Lang Liêu nghe theo lời thần dạy và đã làm chiếc bánh chưng tượng trưng cho đất, bánh dày tượng trưng cho trời, và chàng đã được lên ngôi vị thay cha và trở thành ông vua tốt, ngày này ngoài các món đặc sản như bánh chưng, bánh dày thì còn có bánh cốm cũng là một đặc sản từ cây lúa.
Cây lúa chính là người bạn thân thiết của người nông dân và là nguồn lương thực quý nhất nước ta, có tầm quan trọng rất lớn về kinh tế, cây lúa không chỉ mang lại sự no đủ cho chúng ta mà còn trở thành nét đẹp trong đời sống văn hóa và tinh thần của người dân Việt Nam, ngày này có nhiều loại ăn nhanh nhưng cây lúa vẫn không thay giá trị về nhiều mặt, vẫn không thể thiếu trong các bữa cơm hàng ngày, và là người bạn đồng hành của người dân Việt Nam theo năm tháng.
Thuyết minh về cây lúa nước Việt Nam – Bài làm 3
Đang ngủ say, tôi giật mình khi nghe tiếng gọi. Mở mắt ra thì thấy chị Gió – người bạn thân thiết của mọi người. Chị cất tiếng: “- Chào Lúa, lẽ ra chị không định đánh thức em đâu nhưng vì có chuyện gấp phải nhờ đến em”.
– Ồ em cũng định dậy, trời đã sáng rồi…mà có việc gì thế chị?
– Chẳng là thế này, tòa soạn báo Ban Mai Xanh giao nhiệm vụ cho chị phải đi phỏng vấn viết bài về những vấn đề có liên quan đến họ hàng nhà Lúa nhà em đấy. Lúa giúp chị nhé.
– Ồ được ạ! Em sẵn sàng, thế chị muốn biết gì nào?
– Chúng ta bắt đầu nhé! Em hày cho chị biết về nguồn gốc, quê quán của họ Lúa nhà các em?
– Chị ạ, đã từ lâu, từ rất lâu rồi, từ khi có con người, có sự sống trên trái đất thì đã có mặt chúng em. Còn quê quán, chúng em không định cư ở một nơi mà khắp mọi nơi trên đất nước ta từ đồng bằng đến miền núi, từ Nam ra Bắc đâu đâu cũng có họ hàng, anh em nhà lúa chúng em sinh sống.
– Nhà lúa các em đông vui thật. Như thế chắc họ hàng đa dạng lắm nhỉ?
– Đúng vậy chị ạ. Họ hàng nhà lúa chúng em rất phong phú. Ở miền Bắc nơi em đang sống cũng là quê nội thì có Khang Dân, Ải Quế, Nếp…Lúa Nếp là vật phẩm không thể thiếu trong các gia đình vào ngày lễ Tết, giỗ chạp…Còn Tám Xoan cấy ở vùng Hải Hậu, Nam Định là một đặc sản nổi tiếng đấy. Chị biết không? Tám Xoan mà ăn với giò chả thì thật tuyệt vời! Còn miền Nam quê ngoại em có: Di Hương, Móng Chim…
– Phong phú thật, thế đặc điểm cơ thể và quá trình sinh trưởng của các em ra sao?
– Chúng em thuộc loài thân cỏ, rễ chùm. Qúa trình gieo trồng chúng em cũng khác: miền Bắc thì cấy, còn miền Nam thì gieo sạ. Khi gieo cấy từ mười đến mười lăm ngày thì chúng em bắt đầu phát triển. Bà con nông dân sẽ bón phân, làm cỏ chăm sóc chúng em lớn nhanh, khỏe, đẹp. Thời kì này chúng em vẫn được mọi người gọi là “lúa đang thì con gái”. Để được cánh đồng lúa xanh tốt thế này bà con nông dân cần phải vất vả lắm chị ạ! Một hạt thóc làm ra là cả bao công lao vất vả. Em nhớ từng được nghe một bà cụ hát ru cháu rằng:
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.
Ai ơi bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
Chính vì khó nhọc vất vả thế nên người dân gọi hạt gạo, hạt lúa là “ngọc thực” và chúng em rất được họ trân trọng, nâng niu!
– Trong sự phát triển chung của đất nước và trong cuộc sống thường ngày, các em đã có những đóng góp gì?
– Trong sự phát triển của đất nước, chúng em có vai trò rất quan trọng bởi Việt Nam có tới 80% dân số sống bằng nghề nông. Hiện nay, Việt Nam là nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới đấy chị ạ! Chúng em đã mang về nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước. Còn trong cuộc sống thường ngày thì cả cơ thể chúng em đều có tác dụng: gạo để ăn; trấu để đun, bón phân; cám nuôi lợn; thân rạ rơm để đun bếp, làm nấm…Chị biết không, sau mỗi mùa gặt bội thu người dân ai cũng hớn hở tràn đầy niềm vui. Hương cốm mới hay đĩa xôi gấc ăn trong tiết trời thu se lạnh là đặc sản dân tộc mà mỗi khi xa quê khó ai có thể quên được…
– Thật tuyệt vời, bây giờ chị muốn được biết em đang có những ước mơ gì?
– Giờ đây làng quê đã có nhiều đổi mới, em chỉ mong con người ngày càng cải tiến kĩ thuật, sản xuất được nhiều giống lúa không chỉ ngon mà còn làm cho năng xuất cao. Mong cho người nông dân có cách gieo trồng đỡ vất vả hơn và hạt lúa của Việt Nam sẽ ngày càng được đánh giá cao trên khắp thế giới.
– Cuộc trao đổi hôm nay thật có ý nghĩa. Qua đây chị đã hiểu được nhiều điều về họ hàng nhà Lúa. Ôi! Trời nắng rồi, bác Mặt Trời đang cười rất tươi kìa. Thôi, chị phải về viết lại bài để đánh máy kẻo muộn mất. Cảm ơn Lúa đã giúp chị: Chị chào Lúa nhé!
– Chào chị Gió. Chúc chị thượng lộ bình an!
Thuyết minh về cây lúa nước – Bài làm 4
Cày đồng đang buổi ban trưa,
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi, bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần
(Ca dao)
Ca dao trên nói về sự vất vả của người nông dân khi trồng lúa. Vậy cây lúa là gì, tại sao người nông dân lại phải bỏ nhiều công sức cho nó đến vậy? Xin trả lời rằng cây lúa là hình ảnh rất thân thuộc, gần gũi với người Việt Nam. Cây lúa gắn bó với người Việt từ rất lâu rồi, nó như vận mệnh, cuộc sống của người nông dân.
Về mặt sinh học, cây lúa là một loài thực vật nằm trong ngành Thực vật có hoa, lớp Thực vật một lá mầm, thuộc hoa Hoà thảo. Lúa được gọi theo tên khoa học là Oryza, có nguồn gốc từ Đông Nam Á và châu Phi. Lúa được chia làm hai loài là Oryza glaberrima và Oryza sativa.
Cây lúa ở Việt Nam được chia làm hai loại, lúa cạn gieo ở trên nương và lúa nước trồng ở đồng bằng. Thời xưa, nước ta chủ yếu trồng lúa nước vì vậy đã tạo nên một nền văn minh lúa nước.
Lúa là loài thực vật sống ngắn ngày, có thể cao tới 1 – l,8m, đôi khi cao hơn, với các lá mỏng, hẹp bản (2 – 2,5cm) và dài 50 – 100cm. Các hoa nở thụ phấn nhờ gió, mọc thành cụm hoa nhánh cong hay rũ xuống, dài 30 – 50cm. Hạt là loài quả thóc (hạt nhỏ, cứng của các loại cây ngũ cốc) dài 5-12 mm và dày 2 – 3 mm. Cây lúa non được gọi là mạ. Sản phẩm thu được từ cây lúa gọi là thóc. Sau khi sát bỏ lớp vỏ ngoài thu được sản phẩm chính là gạo và các phụ phẩm là cám và trấu. Gọi là nguồn lương thực chủ yếu của hơn một nửa dân số thế giới (chủ yếu ở châu Á và châu Mĩ latinh), điều này làm cho nó trở thành loại lương thực được con người tiêu thụ nhiều nhất.
Việc trồng lúa rất phù hợp ở nước ta vi chi phí nhân công thấp, lượng mưa lớn, có mưa – bão theo chu kì. Lúa có thể trồng ở bất kì đâu, thậm chí ở khu vực sườn đồi hay vùng núi.
Lúa thông thường được gieo hay cấy trong các ruộng lúa nước. Ớ miền Bắc, thóc giống được ngâm cho nảy mầm. Người ta đem hạt nảy mầm (mộng mạ) gieo xuống đất, mầm lớn lên thành cây mạ. Mạ được nhổ, đem ra ruộng cây và phát triển thành cây lúa.
Khác với miền Bắc, một số tỉnh ở miền Trung và miền Nam lại gieo thẳng lúa vào các mảnh ruộng được tưới với yêu cầu đảm bảo nguồn nước cho cây và ngăn không cho cỏ dại phát triển.
Ở vùng núi cao, người ta trồng lúa ở các mảnh ruộng bậc thang trên các sườn đồi. Cách gieo, cấy không khác gì nhiều so với các ruộng lúa nước, nhưng giống lúa là lúa cạn và được tưới nước thường xuyên.
Khi cây lúa đã phát triển thì có thể bón phân theo chu kì cho đến khi thu hoạch. Ngày trước, chỉ có hai vụ là vụ mùa và vụ chiêm, ngày nay khoa học phát triển, lúa đã trồng được quanh năm. Điều đó giúp chúng ta từ một nước thiếu gạo trở thành một nước xuất khẩu gạo nhiều thứ hai thế giới (sau Thái Lan).
Để làm ra gạo, cũng phải trải qua nhiều công đoạn khá công phu. Khi lúa chín, người nông dân thu hoạch về, đập lúa lấy thóc, phơi khô rồi xay giã. Đó là cách làm từ ngày xưa, còn bây giờ, khi kĩ thuật phát triển, người ta dùng máy móc để thu hoạch, tuốt lúa, xay, sát…
Hạt thóc trước tiên được xay để tách lớp vỏ ngoài, gọi là gạo xay còn lẫn trấu. Công đoạn tiêp theo là giã (hoặc sát) nhằm loại bỏ mầm hạt và phần còn sót lại của vỏ, gọi là cám, để tạo ra hạt gạo trắng ngần.
Các sản phẩm làm ra từ lúa gạo rất nhiều. Ngoài cơm (tẻ) ta ăn hằng ngày còn có xôi, bún, phở, cháo,… Các loại bánh làm từ gạo có rất nhiều và mỗi vùng quê lại có những loại bánh riêng mang bản sắc, hương vị vùng miền. Những loại bánh mà ta hay ăn nhất có thể kể đến: bánh đa, bánh đúc, bánh trôi, bánh chay, bánh rán, bánh xèo,… Ở nhiều nơi, gạo còn được nghiền thành bột để làm nhiều loại đồ uống. Bột gạo còn an toàn cho những người cần có chế độ ăn kiêng gluten.
Không chỉ có lúa gạo mới có thể tạo ra các sản phẩm phục vụ đời sống mà ngay đến các sản phẩm thừa trong quá trình xay xát lúa thành gạo cũng rất hữu ích. Cám gạo là một mặt hàng giá trị ở châu Á và được dùng nhiều cho những như cầu thiết yếu hằng ngày. Nó là lớp chất dầu ẩm ướt bên trong được đun nóng lên để sản xuất một loạt dầu ăn có lợi cho sức khỏe con người.
Cây lúa ngày nay được ví như chính con người. Cây lúa từ bao đời đã đi vào những câu ca dao, tục ngữ cũng như chính cuộc sống của chúng ta. Nhánh lúa vàng còn xuất hiện trang trọng trên Quốc huy nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa. Việt Nam.
Ngày nay, khoa học phát triển đã lai tạo được nhiều giống lúa mới có khả năng thích nghi tốt hơn với môi trường sống và cũng có nhiều loại phân bón, chất kích thích, thuốc trừ sâu đế tạo điều kiện thuận lợi cho cây lúa phát triển. Tuy điều này giúp tăng sản lượng lúa nhưng nó đã làm giảm đi chất lượng gạo, các loại chất kích thích, thuốc trừ sâu có nhiều hóa chất độc hại sẽ gây ra các bệnh nan y như ung thư khi dùng nhiều lúa gạo có chứa các chất này. Vì vậy, các nhà khoa học hãy cố gắng tìm ra các giông lúa mới vừa đảm bảo chất lượng vừa không ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng.
Lúa là vận mệnh của đất nước ta, giá trị của nó không thể tính bằng tiền mà phải tính bằng cả tấm lòng. Hãy nâng cao giá trị, hãy bảo vệ cây lúa. Đó vừa là nhiệm vụ vừa là nghĩa vụ không thể bỏ qua của mỗi chúng ta …
Thuyết minh về cây lúa nước – Bài làm 5
Lúa là một trong năm loại cây lương thực chính của thế giới. Đối với người Việt chúng ta cây lúa không chỉ là một loại cây lương thực quý mà còn là một biếu tượng trong văn chương ẩn dưới "bát cơm","hạt gạo".
Việt Nam, một nước có nền kinh tế nông nghiệp từ hàng ngàn năm nay. Từ một nước thiếu lương thực trầm trọng trong những năm chiến tranh nhưng hiện nay, nền nông nghiệp của nước ta không chỉ sản xuất ra đủ một lượng lớn lương thực đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu sang nhiều thị trường lớn trên thế giới. Trong đó ngành trồng lúa ở nước ta là một trong những ngành ngành sản xuất lương thực vô cùng quan trọng và đạt được những thành tựu đáng kể, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới.
Đối với người Việt chúng ta, hay phần lớn dân Á châu nói chung, cây lúa (tên khoa học là Oryza sativa) và hạt gạo là một loại thực phẩm hết sức gần gũi và đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong dinh dưỡng. Ngay từ khi còn trong lòng mẹ, chúng ta đã làm quen với cơm gạo, và lớn lên theo cây lúa cùng hạt gạo. Với bản sắc văn hóa nông nghiệp, cây lúa và hạt gạo còn là một biểu tượng của cuộc sống. Ca dao, khẩu ngữ chúng ta có câu “Người sống về gạo, cá bạo về nước”, hay “Em xinh là xinh như cây lúa”, v.v..
– Qua hàng nghìn năm lịch sử, lúa đã là cây lương thực chủ yếu nuôi sống các thế hệ người Việt cho đến nay. Trong đời sống tinh thần của con người, cây lúa cũng gắn bó thân thiết vô cùng. Điều đó được thể hiện rất rõ trong ngôn ngữ hàng ngày, trong cách nói, cách đặt tên, gọi tên từ cửa miệng của những người hai sương một nắng.
Bắt đầu từ lúc ném hột mộng xuống đồng. Thông thường ném buổi sáng thì buổi chiều mộng "ngồi" được, tức là rễ đã bám được vào đất và mầm nhọn đã xuôi hướng lên trời. Bác nông dân hoàn toàn có thể yên tâm vì nó đã sống được trong môi trường mới, đích thực của nó.
Qua hôm sau, mầm nhú lên cao hơn, bắt đầu có chút xanh xanh, người ta bảo là mạ đã "xanh đầu". Mạ cũng có "gan". "Gan mạ nằm ở thân non, dễ bị gãy nát. Nhổ không khéo, nhỡ để giập "gan" thì dảnh mạ sẽ "chết".
Cấy xuống được vài ba hôm thì lúa đâm rễ mới, gọi là bén chân hay "đứng chân". Cũng như chữ "ngồi" ở trên, chữ "đứng chân" rất chính xác, rất hình tượng, vì chỉ vài ba hôm trước do mới cấy, mọi cây lúa đều ngả nghiêng, xiêu vẹo, thậm chí có cây còn bị nổi trên mặt nước nữa. Giờ đây đã "đứng chân" được, tức là cũng giống như người ta, có một tư thế đứng chân vững vàng, đã chắc chắn bám trên mặt đất.
Khác với lúc nảy mầm, cây lúa sinh sôi bằng cách "đẻ nhánh". Nhánh "con" nhánh "cái" thi nhau mọc ra, tần vần thành khóm. Vào khoảng tháng hai âm lịch, khắp cánh đồng mơn mởn màu xanh. Dáng cây thon thả, mềm mại, sắc lá non tơ đầy sức sống gợi cái gì đấy tươi trẻ, xinh xắn, dịu dàng. Đó chính là lúc cây lúa "đang thì con gái", thời đẹp nhất của đời lúa, đời người. Gặp hôm trời quang mây tạnh, đứng ở đầu làng mà trông, cánh đồng trải ra bát ngát, đẹp tựa bức tranh.
Hết thời kỳ xuân xanh, lúa chuyển sang giai đoạn "tròn mình", "đứng cái" rồi "ôm đòng". Đòng lúa to nhanh, nắng mưa rồi mỗi ngày mỗi khác. "Lúa chiêm lấp ló đầu bờ/Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên". Nếu mưa thuận gió hoà chỉ mươi hôm là lúa trỗ xong. Nhưng chẳng may gặp kỳ khô hạn thì đòng không trỗ lên được, người ta bảo bị "nghẹn". "Nghẹn" là cực lắm rồi, là có cái gì nó vương vướng, như uẩn ức trong lòng…
Ngoài ra cũng có thể bị "ngã", bị "nằm" lúc gặp gió lớn mưa to. Ông bà ta sợ nhất cảnh này vì mấy tháng trông cây đã sắp đến ngày hái quả. Nếu chẳng may bị "ngã" non thì hột thóc sẽ lép lửng, coi như hỏng ăn. Còn lúa "nằm" dưới nước, ngâm độ vài ngày thì hột thóc trương lên, nứt nanh và nảy mầm ngay trên bông. Mầm nhú trắng trông xót ruột. Xót ruột về khoe vui với nhau, thóc nhà tôi "nhe răng cười" ông ạ!
Người nông dân xưa nay vốn mộc mạc, chất phác. Chẳng phải họ văn vẻ gì đâu. Chỉ vì gần gũi quá, thân quen quá. Ban ngày vác cuốc ra đồng thăm lúa. Ban đêm giấc mơ toàn thấy những cây lúa. Lúa là đói no, là người bạn có thể sẻ chia nỗi niềm, buồn vui tâm sự. Trải qua chiều dài các thế hệ, đời lúa lặn vào đời người. Và rồi, đời người lại chan hoà, gửi gắm vào đời lúa thông qua những từ ngữ nôm na, những tên gọi sinh động kể trên.
Cây lúa gần gũi với người nông dân cũng như bờ tre, khóm chuối. Bởi vậy thấm đẫm tình người và hồn quê, càng nắng mưa, sương gió, càng nồng nàn hoà quyện thân thương.
Nông nghiệp Việt Nam vốn mang dáng dấp một nước -nền công nghiệp lúa nước bao đời nay cho nên cây lúa gắn bó ,gần gũi với người Việt,hồn Việt là lẽ dĩ nhiên.
Dưới đây là 1 đoạn thuyết minh về cây lúa mà mình sưu tầm được,bạn có thể tham khảo thêm:
Từ ngàn đời nay,cây lúa đã gắn bó với con người,làng quê Việt nam.Và đồng thời cũng trở thành tên gọi cho một nền văn minh-nền văn minh lúa nước.
Cây lúa không chỉ mang lại sự no đủ mà còn trở thành một nét đẹp trong đời sống văn hóa và tinh thần.hạt lúa và người nông dân cần cù,mộc mạc là mảng màu không thể thiếu trong bức tranh của đồng quê Việt nam hiện nay và mãi mãi về sau
Là cây trồng thuộc nhóm ngũ cốc,lúa cũng là cây lương thực chính của người dân VN nói riêng và người dân châu á nói chung.Cây lúa ,hạt gạo đã trở nên thân thuộc gần gũi đến mức từ bao đời nay người dân VN coi đó là một phần không thể thiếu trong cuộc sống.Từ những bữa cơm đơn giản đến các bữa tiệc quan trọng không thể thiếu sự góp mặt của cây lúa,chỉ có điều nó được chế biến dưới dạng này hay dạng khác.Không chỉ giữ vai trò to lớn trong đời sống kinh tế,xã hội mà còn có giá trị lịch sử,bởi lich sử phát triển của cây lúa gắn với lịch sử phát triển của cả dân tộc VN,in dấu ấn trong từng thời kỳ thăng trầm của đất nước.Trước đây cây lúa hạt gạo chỉ đem lại no đủ cho con người, thì ngày nay nó còn có thể làm giàu cho người nông dân và cho cả đất nước nếu chúng ta biết biến nó thành thứ hàng hóa có giá trị.
Việt Nam là cái nôi của nền văn minh lúa nước,hạt gạo gắn liền với sự phát triển của dân tộc…..cho đến nay vẫn là nền kinh tế của cả nước.
Thuyết minh về cây lúa nước – Bài làm 6
Từ ngàn đời nay,cây lúa đã gắn bó với con người,làng quê Việt nam.Và đồng thời cũng trở thành tên gọi cho một nền văn minh-nền văn minh lúa nước.Cây lúa không chỉ mang lại sự no đủ mà còn trở thành một nét đẹp trong đời sống văn hóa và tinh thần.hạt lúa và người nông dân cần cù,mộc mạc là mảng màu không thể thiếu trong bức tranh của đồng quê Việt nam hiện nay và mãi mãi về sau.
Lúa là một trong năm loại cây lương thực chính của thế giới.
Đối với người Việt chúng ta cây lúa không chỉ là một loại cây lương thực quý mà còn là một biếu tượng trong văn chương ẩn dưới “bát cơm”,”hạt gạo”.Việt Nam, một nước có nền kinh tế nông nghiệp từ hàng ngàn năm nay. Từ một nước thiếu lương thực trầm trọng trong những năm chiến tranh nhưng hiện nay, nền nông nghiệp của nước ta không chỉ sản xuất ra đủ một lượng lớn lương thực đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu sang nhiều thị trường lớn trên thế giới. Trong đó ngành trồng lúa ở nước ta là một trong những ngành ngành sản xuất lương thực vô cùng quan trọng và đạt được những thành tựu đáng kể, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới.
Đối với người Việt nói riêng hay phần lớn dân Á châu nói chung, cây lúa (tên khoa học là Oryza sativa) và hạt gạo là một loại thực phẩm hết sức gần gũi và đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong dinh dưỡng. Ngay từ khi còn trong lòng mẹ, chúng ta đã làm quen với cơm gạo, và lớn lên theo cây lúa cùng hạt gạo. Với bản sắc văn hóa nông nghiệp, cây lúa và hạt gạo còn là một biểu tượng của cuộc sống. Ca dao, khẩu ngữ chúng ta có câu “Người sống về gạo, cá bạo về nước”, hay “Em xinh là xinh như cây lúa”, v.v..
Qua hàng nghìn năm lịch sử, lúa đã là cây lương thực chủ yếu nuôi sống các thế hệ người Việt cho đến nay. Trong đời sống tinh thần của con người, cây lúa cũng gắn bó thân thiết vô cùng. Điều đó được thể hiện rất rõ trong ngôn ngữ hàng ngày, trong cách nói, cách đặt tên, gọi tên từ cửa miệng của những người hai sương một nắng.
Bắt đầu từ lúc ném hột mộng xuống đồng. Thông thường ném buổi sáng thì buổi chiều mộng “ngồi” được, tức là rễ đã bám được vào đất và mầm nhọn đã xuôi hướng lên trời. Bác nông dân hoàn toàn có thể yên tâm vì nó đã sống được trong môi trường mới, đích thực của nó.
Qua hôm sau, mầm nhú lên cao hơn, bắt đầu có chút xanh xanh, người ta bảo là mạ đã “xanh đầu”. Mạ cũng có “gan”. “Gan mạ nằm ở thân non, dễ bị gãy nát. Nhổ không khéo, nhỡ để giập “gan” thì dảnh mạ sẽ “chết”.
Cấy xuống được vài ba hôm thì lúa đâm rễ mới, gọi là bén chân hay “đứng chân”. Cũng như chữ “ngồi” ở trên, chữ “đứng chân” rất chính xác, rất hình tượng, vì chỉ vài ba hôm trước do mới cấy, mọi cây lúa đều ngả nghiêng, xiêu vẹo, thậm chí có cây còn bị nổi trên mặt nước nữa. Giờ đây đã “đứng chân” được, tức là cũng giống như người ta, có một tư thế đứng chân vững vàng, đã chắc chắn bám trên mặt đất.
Khác với lúc nảy mầm, cây lúa sinh sôi bằng cách “đẻ nhánh”. Nhánh “con” nhánh “cái” thi nhau mọc ra, tần vần thành khóm. Vào khoảng tháng hai âm lịch, khắp cánh đồng mơn mởn màu xanh. Dáng cây thon thả, mềm mại, sắc lá non tơ đầy sức sống gợi cái gì đấy tươi trẻ, xinh xắn, dịu dàng. Đó chính là lúc cây lúa “đang thì con gái”, thời đẹp nhất của đời lúa, đời người. Gặp hôm trời quang mây tạnh, đứng ở đầu làng mà trông, cánh đồng trải ra bát ngát, đẹp tựa bức tranh.
Hết thời kỳ xuân xanh, lúa chuyển sang giai đoạn “tròn mình”, “đứng cái” rồi “ôm đòng”. Đòng lúa to nhanh, nắng mưa rồi mỗi ngày mỗi khác. “Lúa chiêm lấp ló đầu bờ/Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”. Nếu mưa thuận gió hoà chỉ mươi hôm là lúa trỗ xong. Nhưng chẳng may gặp kỳ khô hạn thì đòng không trỗ lên được, người ta bảo bị “nghẹn”. “Nghẹn” là cực lắm rồi, là có cái gì nó vương vướng, như uẩn ức trong lòng…
Ngoài ra cũng có thể bị “ngã”, bị “nằm” lúc gặp gió lớn mưa to. Ông bà ta sợ nhất cảnh này vì mấy tháng trông cây đã sắp đến ngày hái quả. Nếu chẳng may bị “ngã” non thì hột thóc sẽ lép lửng, coi như hỏng ăn. Còn lúa “nằm” dưới nước, ngâm độ vài ngày thì hột thóc trương lên, nứt nanh và nảy mầm ngay trên bông. Mầm nhú trắng trông xót ruột. Xót ruột về khoe vui với nhau, thóc nhà tôi “nhe răng cười” ông ạ!
Người nông dân xưa nay vốn mộc mạc, chất phác. Chẳng phải họ văn vẻ gì đâu. Chỉ vì gần gũi quá, thân quen quá. Ban ngày vác cuốc ra đồng thăm lúa. Ban đêm giấc mơ toàn thấy những cây lúa. Lúa là đói no, là người bạn có thể sẻ chia nỗi niềm, buồn vui tâm sự. Trải qua chiều dài các thế hệ, đời lúa lặn vào đời người. Và rồi, đời người lại chan hoà, gửi gắm vào đời lúa thông qua những từ ngữ nôm na, những tên gọi sinh động kể trên.
Cây lúa gần gũi với người nông dân cũng như bờ tre, khóm chuối. Bởi vậy thấm đẫm tình người và hồn quê, càng nắng mưa, sương gió, càng nồng nàn hoà quyện thân thương.
Nông nghiệp Việt Nam vốn mang dáng dấp một nước -nền công nghiệp lúa nước bao đời nay cho nên cây lúa gắn bó ,gần gũi với người Việt, hồn Việt là lẽ dĩ nhiên.