25/05/2018, 08:58

Thực hiện quản lý cấu hình

Quản lý cấu hình bao gồm các bước sau : - Thu thập các thông tin về môi trường mạng hiện thời : điều này có thể thực hiện một cách thủ công hay tự động. Trong trường hợp thu thập một cách thủ công, người quản trị có thể thất bại chỉ ...

Quản lý cấu hình bao gồm các bước sau :

- Thu thập các thông tin về môi trường mạng hiện thời : điều này có thể thực hiện một cách thủ công hay tự động. Trong trường hợp thu thập một cách thủ công, người quản trị có thể thất bại chỉ vì mất quá nhiều thời gian mà nguyên nhân lại lac có một lỗi cấu hình đơn giản.

- Dùng dữ liệu đó để sửa đổi cấu hình của thiết bị mạng.

Môi trường dữ liệu mạng là luôn luôn thay đổi. Khả năng để sửa đổi cấu hình hiện thời đó trong trong thời gian thực (Real time) cần thiết. Việc sửa đổi này có thể là thủ công nếu phương pháp thu thập thông tin là thủ công hay tự động nếu phương pháp thu thập thông tin là tự động.

- Dữ liệu thu thập được luôn được lưư trữ, cho phép sinh các bảng kiểm kê mới tất cả các thành phần mạng hay các báo cáo khác về từng thành phần của mạng.

Thu thập các dữ liệu một cách thủ công.

Thu nhận thông tin từ mạng thường là bắt đầu với một sự cố gắng bằng một thao tác thủ công. Ta có thể đăng nhập mạng từ xa để tìm mỗi thiết bị trên mạng và sau đó ghi các số serial cũng như địa chỉ của chúng trong một bảng tính hoặc trong file văn bản. Sẽ rất tốn thời gian và khó khăn để theo dõi và ghi nhận thường xuyên cấu hình mạng. Đó là chưa kể công việc này rất đơn điệu và buồn tẻ.

Thực ra để cho dễ theo dõi ta có thể sắp xếp các bảng này để dễ dàng tra cứu. Nhưng điều đó lại đòi hỏi ta phải thường xuyên xem xét lại danh mục các thiết bị mới và sắp xếp lại.

Việc thu thập số liệu thủ công đặc biệt khó khăn khi mạng phức tạp.

Thu thập tự động

Các công việc khó khăn của việc thu thập các thông tin và cập nhật dữ liệu cấu hình có thể được loại trừ nếu dùng các phương pháp tự động. VD : người kỹ sư có thể dùng một nghi thức quản lý mạng để lấy các dữ liệu đều đặn về các thiết bị mạng và tự động ghi lại các dữ liệu đó trong thiết bị nhớ.

Một công cụ khác ta có thể dùng là được công cụ tự phát hiện (Auto-discovery), cho phép sinh ra một danh sách tất cả các thiết bị hiện có trên mạng. Thông qua bộ tự phát hiện cũng có thể tạo ra một sơ đồ hình học (graphical map) của mạng hiện thời đang dùng với một quá trình được gọi là tự động vẽ sơ đồ (automapping).

Sửa đổi dữ liệu cấu hình.

Thông tin quản lý cấu hình cần được cập nhật thường xuyên. Xét trường hợp một mạng có 5000 nút. Nếu chỉ cần1% các máy đó phải đặt địa chỉ một tuần thì người kỹ sư đã phải thực hiện tới 50 sửa đổi trong một tuần. Thế mà vấn đề cấp địa chỉ chỉ là một phần trong những công việc thiết lập cấu hình. Khi setup một thiết bị có khi phải đặt đến một tá tham số. Ta thấy rằng khó có thể làm công việc này một cách thủ công ngoại trừ khi các kỹ sư thực hiện từng bước để ghi lại các bước thực hiện của họ. Nếu các thay đổi của cấu hình sẽ không được lưu giữ có thể dẫn tới sự lộn xộn, rắc rối khi mà một người kỹ sư mạng khác kiểm tra cấu hình của thiết bị đã được thay đổi.

Nếu hệ quản lý cấu hình cho phép thay đổi cấu hình thiết bị trên toàn bộ hệ thống quản lý mạng thì các thay đổi đó có thể được ghi lại tự động trưóc khi chúng được gửi cho thiết bị. Một lợi ích khác khi quản lý tự động là hệ thống có thể xác định những thay đổi cấu hình nào là thích hợp với thiết bị mạng và phải báo cho người kỹ sư trước khi anh ta vô tình định dạng sai thiết bị.

Lưu giữ các thông tin :

Quản lý cấu hình cũng phải cung cấp một phương tiện cho để lưu giữ các thông tin. Một hệ quản lý có hiệu quả phải lưu trữ toàn bộ cấu hình của một dữ liệu mạng tại một vị trí trung tâm, mà ở đó người kỹ sư mạng có thể truy nhập được một cách nhanh chóng các dữ liệu cấu hình. Các thông tin này được lưu giữ vào trong một notebook hoặc là một bảng tính trên một máy PC tại trung tâm điều khiển mạng.

- Một dạng chung nhất để lưu giữ các thông tin cấu hình trong bộ nhớ của máy tính là các file dạng ASCII, dạng này có ưu điểm là dễ đọc và cấu trúc của các file đó thường là dễ hiểu và dễ quản lý. Hầu như các chương trình ứng dụng có khả năng đọc được các file ở dạng mã ASCII này. Tuy nhiên giải pháp này không phải là hoàn toàn tốt. Các tệp ASCII thường có kích thước lớn. Hơn nữa việc tìm kiếm thông tin trên tệp ASCII thường là phải duyệt nên sẽ mất thời gian hơn theo kiểu lưu trữ có cấu trúc. Một khiếm khuyết nghiêm trọng của dạng ASCII này là khó cung cấp những mối liên hệ phức tạp.

Vì các file ở dạng mã ASCII có những thiếu sót hay bất lợi trong việc lưu trữ và sử dụng thông tin nên để đạt được hiệu quả tốt sau này người ta thường dùng các hệ quản trị cơ sở dữ liệu quan hệ (RDBMS : Relational Database Management System), một RDBM thường có nhiều lợi thế hơn các file dạng ASCII trong lưu trữ dữ liệu.

  1. Nó lưu trữ dữ liệu hiệu quả, cho phép 1 số lượng lớn dữ liệu lưu trữ trên một máy.
  2. Nó lưu trữ dữ liệu trên khuôn dạng của nó, điều đó cho phép tìm kiếm nhanh các dữ liệu riêng biệt.
  3. Nó có thể sắp xếp một cách tự động các dữ liệu lưu giữ theo nhiều cách khác nhau.
  4. Nó có thể khôi phục tự động các dữ liệu bị mất.
  5. Nó cho phép người dùng liên kết nhiều kiểu dữ liệu khác nhau.
0