25/05/2018, 09:58

Thực hiện các kế hoạch nhà nước ở miền bắc và đấu tranh chống Mỹ và tay sai ở miền nam (1945-1965)

Thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước Ngay sau khi hòa bình được lập lại, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc khôi phục kinh tế và hoàn thành cải cách ruộng đất. Ngay từ những ngày đầu được giải ...

Thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước

Ngay sau khi hòa bình được lập lại, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc khôi phục kinh tế và hoàn thành cải cách ruộng đất. Ngay từ những ngày đầu được giải phóng, cùng với quá trình khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân, nhiệm vụ cấp bách của miền Bắc là tiếp quản những vùng địch tạm chiếm theo quy định của Hiệp định Giơnevơ. Việc tiếp quản diễn ra hết sức khó khăn, phức tạp bởi Pháp và tay sai đã dùng mọi âm mưu, thủ đoạn để chống phá, làm rối loạn xã hội và mất trật tự an ninh trước khi chúng rút quân.

Ở nhiều địa phương, Pháp và tay sai đã tung tin bịa đặt để gây hoang mang, kích động dân chúng, thúc ép đồng bào theo đạo Thiên Chúa rời bỏ nhà cửa, ruộng vườn di cư vào Nam. Có nơi chúng đã cung cấp tiền của, phương tiện cho bọn phản động gây rối trật tự trị an như ở Bùi Chu (Nam Định), Phát Diệm (Ninh Bình), gây bạo loạn ở Ba Làng (Thanh Hóa), Quỳnh Lưu (Nghệ An). Đây là cuộc đấu tranh chính trị sâu sắc, nhưng lãnh đạo Đảng và chính quyền nhiều địa phương chưa thấy hết được tính chất phức tạp và cấp bách của nó, do đó đã không có những chủ trương, biện pháp đối phó kịp thời, thậm chí có nơi đã không dám trấn áp bọn phản động cầm đầu, sợ vi phạm Hiệp định Giơnevơ. Đảng ta đã phê phán những sai lầm đó và thành lập các ban chỉ đạo chống cưỡng ép dân di cư. Đồng thời, để ổn định tình hình, nhiều chính sách của Đảng và Nhà nước được ban hành kịp thời trong thời gian này như: chính sách đối với tôn giáo; chính sách đối với công chức, trí thức trước đây làm việc cho địch; chính sách đối với ngụy quân. Ngoài ra, Đảng và Nhà nước còn huy động hàng vạn cán bộ, bộ đội đến giúp đỡ các địa phương, tuyên truyền, vận động quần chúng đấu tranh chống địch cưỡng ép di cư nhằm ổn định tình hình.

Sau chiến tranh, nền kinh tế miền Bắc gặp nhiều khó khăn gay gắt, việc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh đã được khẩn trương thực hiện. Cụ thể là:

Trong khôi phục kinh tế, Đảng đặt trọng tâm là sản xuất nông nghiệp. Việc khôi phục sản xuất nông nghiệp được kết hợp với cải cách ruộng đất và vận động đổi công, giúp nhau sản xuất, đồng thời, chăm lo xây dựng cơ sở vật chất cho nông nghiệp.

Sản xuất nông nghiệp được khôi phục và phát triển, nạn đói bị đẩy lùi, tạo điều kiện giải quyết những vấn đề cơ bản trong nền kinh tế quốc dân, kết quả này góp phần ổn định chính trị, trật tự an ninh xã hội.

Cùng với khôi phục sản xuất nông nghiệp, việc khôi phục công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và giao thông vận tải cũng hoàn thành. Hầu hết các xí nghiệp quan trọng đã được phục hồi sản xuất và tăng thêm thiết bị, một số nhà máy mới được xây dựng.

Trong quá trình khôi phục kinh tế, Đảng hết sức coi trọng thành phần kinh tế quốc doanh, tạo điều kiện cho thành phần này dần dần giữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Giao thông vận tải nhanh chóng được phục hồi, mọi hoạt động kinh tế ở miền Bắc đã ổn định. Các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế được phát triển nhanh.

Hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở được xây dựng và củng cố, đã phát huy được hiệu lực trong việc hoàn thành nhiệm vụ khôi phục kinh tế và trong việc đập tan mọi âm mưu và thủ đoạn của bọn phản động chống đối chế độ mới.

Công cuộc giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất được tiếp tục đẩy mạnh. Để đảm bảo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cải cách ruộng đất, Đảng chủ trương dựa hẳn vào bần cố nông, đoàn kết với trung nông, đánh đổ giai cấp địa chủ, tịch thu ruộng đất của họ để chia đều cho dân cày nghèo.

Đến tháng 7-1956, cải cách ruộng đất đã căn bản hoàn thành ở đồng bằng, trung du và 280 xã ở miền núi. Chế độ chiếm hữu ruộng đất phong kiến ở miền Bắc nước ta đến đây bị xóa bỏ hoàn toàn. 9 triệu người trong hơn 2 triệu hộ dân lao động được chia hơn 810.000 ha ruộng đất.

Trong quá trình cải cách ruộng đất, bên cạnh những kết quả đạt được, Đảng ta đã phạm phải một số sai lầm nghiêm trọng, phổ biến và kéo dài trong chỉ đạo thực hiện. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sai lầm là chủ quan, giáo điều, không xuất phát từ tình hình thực tiễn, nhất là những thay đổi quan trọng về quan hệ giai cấp, xã hội ở nông thôn miền Bắc sau ngày được hoàn toàn giải phóng. Do đó, trong chỉ đạo, thực hiện cải cách ruộng đất, đã cường điệu hóa đấu tranh giai cấp ở nông thôn, dẫn đến mở rộng quá mức đối tượng đấu tranh; sử dụng hình thức, phương pháp không phù hợp với đối tượng là địa chủ ở nông thôn Việt Nam; trong chỉnh đốn tổ chức, đã nhận định sai về tình hình tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn, cho rằng về cơ bản đã bị địch lũng đoạn, từ đó dẫn đến xử lý oan những cán bộ, đảng viên tốt. Sai lầm này đã gây ra một số tổn thất đối với Đảng và quan hệ giữa Đảng với nhân dân.

Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) tháng 9 - 1956 đã nghiêm khắc kiểm điểm những sai lầm, công khai tự phê bình trước nhân dân thi hành kỷ luật đối với một số uỷ viên Bộ Chính trị và uỷ viên Trung ương Đảng và thành khẩn tiến hành sửa sai một cách kiên quyết, khẩn trương, thận trọng và có kế hoạch lãnh đạo chặt chẽ, nên từng bước đã khắc phục được những sai lầm trong cải cách ruộng đất.

Cuối năm 1957, công cuộc khôi phục kinh tế đã vượt chỉ tiêu đặt ra:

Các xí nghiệp quan trọng được phục hồi và tăng thêm thiết bị, một số xí nghiệp mới được xây dựng; mọi hoạt động kinh tế ở miền Bắc ổn định. Các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, y tế phát triển nhanh; nông nghiệp đã vượt mức năm 1939 (cuối năm 1957, sản lượng lương thực đạt 4 triệu tấn / năm so với mức 2,4 triệu / năm 1939); hệ thống đoàn thể từ Trung ương đến địa phương được củng cố và xây dựng (9-1955, Mặt trận dân tộc thống nhất được đổi tên thành Mặt trận Tổ quốc Việt Nam).

Trên cơ sở thắng lợi của kế hoạch khôi phục kinh tế, Đảng đã tổ chức thực hiện kế hoạch cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế - văn hóa (1958-1960).

Đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh: Đến tháng 11-1969, đã cải tạo 2.097 cơ sở thương nghiệp tư bản với tổng số vốn 25 triệu đồng, có 1.732 tư sản và 500 người trong gia đình họ được sắp xếp việc làm. Các xí nghiệp được sắp xếp lại, hợp nhất các xí nghiệp nhỏ thành các xí nghiệp quy mô vừa. Đồng thời, Đảng chủ trương phát triển mạnh thành phần kinh tế nhà nước, nhất là công nghiệp quốc doanh. Từ năm 1958-1960, Nhà nước đã đầu tư xây dựng cơ bản 1.481 triệu đồng, tăng 2,3 lần thời kỳ 1955-1957. Giá trị sản lượng công nghiệp năm 1960 tăng 4,8 lần so với năm 1955, đạt 850 triệu đồng.

Trong cải tạo nông nghiệp: Đã tiến hành hợp tác hoá nông nghiệp và Đảng coi đây là khâu chính của công tác cải tạo các thành phần kinh tế. Phương châm hợp tác hoá: "Tự nguyện, cùng có lợi, quản lý dân chủ và bước đi phải từ thấp đến cao" và "... từ hình thức thấp như tổ đổi công tiếp lên hợp tác xã bậc cao. Quy mô cũng phải từ nhỏ tiến lên lớn". Thực hiện chủ trương trên, trong năm 1958, phong trào hợp tác hoá phát triển mạnh và nhanh chóng trở thành cao trào. Sau hơn 2 năm (1958-1959), hợp tác hoá nông nghiệp được coi như hoàn thành cơ bản. Trong 3 năm (1958-1960), sản xuất nông nghiệp đạt nhiều kết quả, tăng trưởng trung bình mỗi năm 5,6%.

Song, bên cạnh đó, nhiều hợp tác xã còn gặp khó khăn, sản xuất sút kém, một số cán bộ hợp tác xã tham ô, lạm dụng của công... Các nguyên tắc và phương châm cải tạo tiến hành hợp tác hoá nông nghiệp của Đảng không được tuân thủ đúng đắn, có những sai phạm và còn gò ép, áp đặt, chạy theo thành tích... làm cho nông dân thiếu tin tưởng, một số xã viên xin ra khỏi hợp tác xã. Nguyên nhân là ở chỗ phong trào hợp tác hoá còn nóng vội, vi phạm nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi, không nắm vững phương châm: tốt, vững, gọn, chưa tìm ra hình thức quản lý hợp tác xã thích hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Trong cải tạo tiểu thủ công nghiệp và những người buôn bán nhỏ. Đảng và Nhà nước chỉ đạo tiến hành theo các hình thức tổ chức hợp tác khác nhau. Sau hai năm, ngành thủ công nghiệp đã xây dựng được 45.000 hợp tác xã, thu hút 75% thợ thủ công ở thành thị và nông thôn, bước đầu tăng thêm đầu tư thiết bị, cải tiến kỹ thuật. Tuy nhiên, ở đây cũng có thể nhận thấy những hạn chế tương tự như trong phong trào hợp tác hoá.

Ngoài ra, việc phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, chăm lo cải thiện đời sống nhân dân đã rất được coi trọng. Năm 1960, cứ 100 người dân có 18 người đi học (năm 1939 chỉ có 3 người), số giường bệnh tăng lên 2 lần.

Sau khi miền Bắc hoàn thành kế hoạch ba năm (1958-1960), Đảng lãnh đạo Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) nhằm xây dựng bước đầu cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.

Để thực hiện phương hướng, nhiệm vụ và các chỉ tiêu kế hoạch do Đại hội lần thứ III đề ra, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã mở nhiều hội nghị chuyên đề nhằm cụ thể hóa đường lối, đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, như: Hội nghị lần thứ tư tháng 4-1961 bàn về xây dựng Đảng để bảo đảm vai trò lãnh đạo thực hiện đường lối chủ trương của Đảng trong giai đoạn mới; Hội nghị lần thứ năm tháng 7-1961 bàn về phát triển nông nghiệp; Hội nghị lần thứ bảy tháng 3-1962 bàn về phát triển công nghiệp; Hội nghị lần thứ tám tháng 4-1963 bàn về kế hoạch nhà nước; Hội nghị lần thứ mười tháng 12-1964 bàn về lưu thông phân phối, giá cả...

Trong quá trình thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất, nhiều cuộc vận động và phong trào thi đua được triển khai sôi nổi ở các ngành và các địa phương. Trong nông nghiệp có phong trào thi đua theo gương của Hợp tác xã Đại Phong (Quảng Bình), trong công nghiệp có phong trào thi đua với Nhà máy cơ khí Duyên Hải (Hải Phòng), trong tiểu thủ công nghiệp có phong trào thi đua với Hợp tác xã thủ công nghiệp Thành Công (Thanh Hóa), trong ngành giáo dục có phong trào thi đua học tập Trường cấp II Bắc Lý (Hà Nam), trong quân đội có phong trào thi đua "Ba nhất", v.v..

Đặc biệt, phong trào "Mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột thịt" theo Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị chính trị đặc biệt tháng 3-1964 khi đế quốc Mỹ leo thang mở rộng chiến tranh ở miền Nam đã làm tăng thêm không khí phấn khởi, hăng hái vươn lên hoàn thành Kế hoạch năm năm lần thứ nhất.

Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã đạt được những thành tựu to lớn. Trong nông nghiệp, năm 1961 sản lượng lương thực miền Bắc đạt 5,8 triệu tấn, tăng 8,8% so với năm 1960. Đến năm 1965, 88,8% số hộ nông dân đã vào hợp tác xã nông nghiệp. Nông nghiệp miền Bắc đã phát triển tương đối toàn diện, bảo đảm cho miền Bắc ổn định về kinh tế - xã hội, phát huy vai trò hậu phương lớn với tiền tuyến lớn.

Tuy vậy, bên cạnh những thành tích nêu trên vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định. Việc hợp nhất và đưa ồ ạt các hợp tác xã lên bậc cao là chủ quan, nóng vội. Tổ chức sản xuất trong nông nghiệp và trình độ quản lý của cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu, cơ sở vật chất nghèo nàn. Tỷ lệ xã viên xin ra khỏi hợp tác xã cao.

Trong công nghiệp, công nghiệp quốc doanh phát triển với nhịp độ cao. Các ngành công nghiệp nặng như dầu khí, luyện kim, hoá chất... được xây dựng và đi vào sản xuất. Đến năm 1965 có 1.132 xí nghiệp công nghiệp quốc doanh đã được xây dựng. Công nghiệp nhẹ và mạng lưới công nghiệp địa phương phát triển khá. Mặc dù vậy, công nghiệp vẫn còn chưa hướng vào mục tiêu trung tâm phục vụ sản xuất nông nghiệp và hàng tiêu dùng. Quan niệm về công nghiệp hoá còn giản đơn, đồng nhất công nghiệp hoá với việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, quá nhấn mạnh đến việc phát triển công nghiệp nặng, đầu tư quá nhiều vào xây dựng cơ bản trong điều kiện có chiến tranh phá hoại.

Trong lĩnh vực văn hoá - xã hội, trình độ văn hoá, kỹ thuật của cán bộ và nhân dân được tăng lên rõ rệt. Bảo vệ sức khoẻ và chăm sóc y tế được đảm bảo. Các tệ nạn xã hội giảm mạnh. Số lượng học sinh, sinh viên tăng lên đáng kể. Năm 1965, miền Bắc có 4,5 triệu người đi học (trong 16 triệu dân), có 10.290 trường phổ thông các cấp (năm 1969 có 7.066 trường), có 18 trường đại học và cao đẳng với 34.000 sinh viên (năm 1960 có 9 trường và 8.000 sinh viên)...

Trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh, lực lượng ba thứ quân đã nâng cao một bước sức mạnh chiến đấu, 30% ngân sách quốc phòng được đầu tư xây dựng các công trình quân sự, hoàn thành tốt việc chi viện cho chiến trường miền Nam. Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn chưa nhận thức được mối quan hệ giữa xây dựng kinh tế và phát triển quốc phòng.

Trong hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước, thành tựu lớn nhất là đã nâng cao địa vị quốc tế của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, tranh thủ sự đồng tình và giúp đỡ của các nước anh em và nhân dân thế giới đối với cuộc đấu tranh giải phóng.

Kế hoạch này mới thực hiện được bốn năm thì phải chuyển hướng do phải đối phó với chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất do đế quốc Mỹ gây ra, kể từ ngày 5-8-1964. Mặc dù vậy, những mục tiêu chủ yếu của kế hoạch đã cơ bản hoàn thành.

Trải qua 10 năm khôi phục, cải tạo và xây dựng chế độ mới, "miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới"

. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.11, tr. 224.
với chế độ chính trị ưu việt, với lực lượng kinh tế và quốc phòng lớn mạnh, miền Bắc đã trở thành căn cứ địa vững chắc cho cách mạng cả nước.

Nhân dân miền Nam đấu tranh chống đế quốc Mỹ và tay sai

Sau khi hất cẳng Pháp, trực tiếp can thiệp vào miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ đã biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, lập phòng tuyến để ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội xuống Đông Nam Á, thiết lập căn cứ quân sự để tiến công miền Bắc xã hội chủ nghĩa.

Để thực hiện những âm mưu đó, đế quốc Mỹ đã nhanh chóng thiết lập bộ máy chính quyền đứng đầu là Ngô Đình Diệm, xây dựng lực lượng quân sự gần nửa triệu người cùng hàng vạn cảnh sát, mật vụ được trang bị, vũ khí phương tiện chiến tranh hiện đại của Mỹ.

Bộ máy chính quyền, quân đội Sài Gòn đã trở thành công cụ tay sai đắc lực nhằm thi hành chính sách thực dân mới của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Chúng vừa dụ dỗ, lừa bịp, vừa đàn áp, khủng bố với nhiều thủ đoạn thâm độc, dã man. Chúng ráo riết thi hành quốc sách "tố cộng", "diệt cộng", lập "khu trù mật", "khu dinh điền" nhằm mục đích bắt bớ, trả thù tất cả những người yêu nước kháng chiến cũ; thẳng tay đàn áp phong trào đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ của các tầng lớp nhân dân; gây ra nhiều vụ thảm sát đẫm máu ở Mỏ Cày, Bình Đại (Bến Tre) ngày 19-8-1954; Chợ Được (Quảng Nam) ngày 4-9-1954; Ngân Sơn, Chí Thạnh (Phú Yên) ngày 8-9-1954.

Về phía lực lượng cách mạng, sau khi chuyển quân tập kết ra miền Bắc theo Hiệp định Giơnevơ, tương quan lực lượng giữa ta và địch ở miền Nam có sự thay đổi lớn: ta tuy có ưu thế về chính trị và lực lượng quần chúng nhân dân đông đảo nhưng không còn lực lượng vũ trang, không còn chính quyền. Trong khi đó, kẻ thù có đủ sức mạnh về kinh tế và quân sự, nắm trong tay cả bộ máy ngụy quân, ngụy quyền đồ sộ. Chúng thẳng tay đàn áp, tiêu diệt phong trào cách mạng, gây cho ta nhiều tổn thất nặng nề.

Xuất phát từ tương quan lực lượng giữa ta và địch cụ thể lúc này, Đảng đã quyết định thay đổi phương thức đấu tranh quân sự sang đấu tranh chính trị, lãnh đạo quần chúng đấu tranh đòi Mỹ - Diệm phải thi hành hiệp định, phải tổ chức hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước và đòi thực hiện các quyền dân sinh, dân chủ, chống mọi hành động khủng bố, đàn áp.

Thực hiện chủ trương chuyển hướng của Đảng, hàng trăm tổ chức quần chúng công khai, trong đó có các ủy ban đấu tranh đòi hòa bình được thành lập ở miền Nam. Phong trào đấu tranh đòi hiệp thương tổng tuyển cử, chống bầu cử lừa bịp, chống cướp đất, đuổi nhà, dồn dân, đòi công ăn việc làm, chống khủng bố, chống sa thải, chống bắt lính, v.v., được phát triển mạnh mẽ ở cả nông thôn và thành thị với gồm hàng triệu lượt người tham gia.

Để giữ gìn lực lượng và duy trì hoạt động trong điều kiện quân thù khủng bố dã man, các đảng bộ ở miền Nam đã sắp xếp lại tổ chức và rút vào hoạt động bí mật. Nhiều địa phương đã chủ trương "điều" và "lắng"

. Điều cán bộ đi hoạt động ở địa phương khác khi đã bị lộ, lắng là tạm thời rút vào hoạt động bí mật để bảo toàn lực lượng.
cán bộ để bám dân, bám đất lãnh đạo phong trào.

Trước hành động khủng bố ngày càng tàn bạo của địch, yêu cầu vũ trang chống khủng bố ngày càng trở nên bức bách. Nhiều nơi quần chúng lấy vũ khí chôn giấu từ năm 1954, cướp súng địch, dùng vũ khí tự tạo để tự vệ, chống lại khủng bố, tiêu diệt những tên phản động, chỉ điểm, ác ôn.

Tháng 10 - 1957, tại Chiến khu Đ, Đại đội 250 - đơn vị vũ trang đầu tiên được thành lập. Đến cuối năm 1957, ở Nam Bộ có 37 đại đội vũ trang, ở Liên khu V nhiều đội vũ trang cũng được thành lập. Một số trận đánh tiêu diệt quân ngụy đã diễn ra ở Thủ Dầu Một và Biên Hòa.

Trong những năm 1954 - 1957, do chính sách tàn bạo của Mỹ - Diệm, lực lượng cách mạng miền Nam bị tổn thất lớn. Song, nhờ chủ trương chuyển hướng kịp thời của Đảng và với tinh thần kiên định, dũng cảm của cán bộ, đảng viên và nhân dân miền Nam, cách mạng không bị tiêu diệt, trái lại đã trụ vững, từng bước khôi phục và phát triển.

Từ năm 1958, Mỹ - Diệm càng đẩy mạnh khủng bố dã man, liên tiếp mở tiếp các cuộc hành quân càn quét, dồn dân quy mô lớn vào các trại tập trung. Ngày 1-12-1958, chúng đã giết hại hàng ngàn cán bộ cách mạng và đồng bào yêu nước ở trại giam Phú Lợi (Thủ Dầu Một). Tháng 3-1959, Diệm tuyên bố "đặt miền Nam trong tình trạng chiến tranh". Ngày 6-5-1959, Mỹ - Diệm ra luật 10/59 lê máy chém đi khắp miền Nam. Tòa án quân sự đặc biệt của chúng đưa thẳng người bị bắt ra xét xử và bắn tại chỗ.

Thực hiện chính sách khủng bố tàn bạo, tổ chức càn quét, dồn dân lập ấp của Mỹ - Diệm chứng tỏ chúng không mạnh, trái lại thể hiện sự thất bại của "Chiến lược Aixenhao" thực thi ở miền Nam. Chính sách khủng bố và chiến tranh đó đã làm cho mâu thuẫn giữa Mỹ - Diệm với nhân dân miền Nam Việt Nam thêm gay gắt, làm cho tình thế cách mạng chín muồi, dẫn đến bùng nổ các cuộc khởi nghĩa của quần chúng.

Vào đầu năm 1959, một số cuộc nổi dậy của đồng bào các tộc ít người ở Tà Lốc, Tà Léc (Bình Định), ở Bác Ái (Ninh Thuận) phá Khu tập trung trở về buôn làng cũ. Ngày 28-8-1959, nhân dân các tộc người ở Trà Bổng đã vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền và khởi nghĩa đã nhanh chóng nổ ra ở các huyện Sơn Hà, Minh Long, Ba Tơ. Khởi nghĩa Trà Bổng và các huyện miền Tây Quảng Ngãi đã mở đầu cuộc khởi nghĩa từng phần nổ ra trên quy mô tương đối lớn, đúng thời cơ và sáng tạo trong việc sử dụng các hình thức bạo lực đã góp phần làm phong phú thêm về phương thức và nghệ thuật khởi nghĩa từng phần giành chính quyền cơ sở chống lại ách thống trị của chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam.

Giữa lúc đó, Nghị quyết của Hội nghị lần thứ mười lăm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) về cách mạng Việt Nam ở miền Nam đã truyền đến các đảng bộ ở miền Nam. Nghị quyết mười lăm của Ban Chấp hành Trung ương đã vạch rõ phương hướng đánh đổ chính quyền của đế quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân đã tạo đà cho cuộc khởi nghĩa từng phần nổ ra ngày càng rộng lớn.

Ngày 17-1-1960, ở Bến Tre, cuộc khởi nghĩa bắt đầu bùng nổ ở huyện Mỏ Cày, sau đó lan ra các huyện Minh Tân, Giồng Trôm, Châu Thành, Ba Tri, Thạnh Phú, rồi nhanh chóng mở rộng ra khắp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên và một số nơi thuộc các tỉnh Trung Bộ. Hệ thống kìm kẹp của địch ở xã, ấp bị tê liệt và tan vỡ từng mảng lớn.

Đến cuối năm 1960, phong trào Đồng khởi đã làm tan rã cơ cấu chính quyền cơ sở địch ở nhiều vùng nông thôn, có 1.383 xã/ 2.627 xã nhân dân lập chính quyền tự quản. Vùng giải phóng ra đời trên phạm vi rộng lớn, nối liền từ Tây Nguyên đến miền Tây Nam Bộ và đồng bằng Liên khu V. Thắng lợi của phong trào Đồng khởi ở nông thôn đã thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh ở đô thị và các đồn điền, nhà máy. Từ thắng lợi của phong trào Đồng khởi, ngày 20-12-1960, tại xã Tân Lập (Tây Ninh), Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập. Cách mạng miền Nam đã có một tổ chức chính trị để tập hợp rộng rãi quần chúng, nhân dân đoàn kết đấu tranh thực hiện chương trình hành động 10 điểm mà nội dung cơ bản là đánh đổ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm, xây dựng một miền Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà.

Thắng lợi của phong trào Đồng khởi là bước nhảy vọt lịch sử của cách mạng miền Nam.

Do thất bại trong chiến tranh "đơn phương" nên ngay sau khi lên làm Tổng thống Hoa Kỳ, Kennơđi đã chuyển sang chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam. Chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" là một trong ba loại chiến tranh của chiến lược toàn cầu "phản ứng linh hoạt" của đế quốc Mỹ. Trong chiến lược chiến tranh này, Mỹ đã dùng hai thủ đoạn chủ yếu: một là, tăng cường lực lượng quân đội ngụy quyền Sài Gòn và khả năng cơ động của chúng với vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại của Mỹ, do cố vấn quân sự Mỹ trực tiếp chỉ huy; hai là, đẩy mạnh quốc sách "ấp chiến lược" nhằm dồn dân, tách lực lượng cách mạng ra khỏi nhân dân theo hình thức "tát nước, bắt cá" để bình định miền Nam. Với hai thủ đoạn đó, Mỹ - Diệm hy vọng sẽ nhanh chóng làm thay đổi tương quan lực lượng để dễ bề tiêu diệt cách mạng miền Nam.

Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình giữa ta và địch ở miền Nam kể từ sau ngày Đồng khởi, trong cuộc họp tháng 1 năm 1961 và tháng 2 năm 1962, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã đề ra chủ trương chỉ đạo chính xác là tiếp tục giữ vững tư tưởng chiến lược tiến công, đưa đấu tranh vũ trang phát triển lên song song với đấu tranh chính trị, tiến công địch trên cả ba vùng chiến lược: đô thị, nông thôn đồng bằng và nông thôn rừng núi, bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị và binh vận. Đảng chỉ rõ, do đặc điểm phát triển không đều của cách mạng miền Nam, tương quan lực lượng ở mỗi vùng khác nhau, nên phương châm đấu tranh phải linh hoạt, thích hợp với từng vùng cụ thể.

Vùng rừng núi: Lấy đấu tranh vũ trang là chủ yếu.

Vùng nông thôn đồng bằng: Kết hợp hai hình thức đấu tranh vũ trang và chính trị.

Vùng đô thị: Lấy đấu tranh chính trị là chủ yếu.

Để tăng cường sự chỉ đạo của Trung ương Đảng đối với cách mạng miền Nam, tháng 10-1961, Trung ương Cục miền Nam được thành lập, Nguyễn Văn Linh được cử làm Bí thư Trung ương Cục. Đảng bộ miền Nam được kiện toàn với hệ thống tổ chức thống nhất, tập trung từ Trung ương Cục đến các chi bộ. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam làm thêm chức năng của chính quyền cách mạng. Ngày 15-2-1961, các lực lượng vũ trang ở miền Nam được thống nhất với tên gọi Quân giải phóng miền Nam Việt Nam.

Cách mạng miền Nam đã có bước phát triển mới. Trên mặt trận quân sự ta đã thu được nhiều thắng lợi quan trọng. Trong ba năm 1961 - 1963, ta đã đánh hơn 50 trận lớn nhỏ với những chiến thắng vang dội như trận Ấp Bắc (Mỹ Tho), Cái Nước - Đầm Dơi (Cà Mau). Phong trào đấu tranh phá "ấp chiến lược" phát triển mạnh mẽ, với phương châm "bám đất, bám làng", "một tấc không đi, một ly không rời". Tính từ năm 1961 đến năm 1963, chúng ta đã phá hoàn toàn 2.895 ấp/6.161 ấp; giành quyền làm chủ 12.000/17.000 thôn; giải phóng 5/14 triệu dân.

Do tác động của phong trào đấu tranh quân sự và phong trào phá "ấp chiến lược", phong trào đấu tranh chính trị ở các đô thị cũng phát triển sôi động, mạnh mẽ, nhất là từ năm 1963 trở đi, lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động, trí thức, học sinh, sinh viên và các giáo phái tham gia, đặc biệt là phong trào đấu tranh của đồng bào Phật giáo.

Với những chiến thắng dồn dập trên các mặt trận quận sự và chính trị của nhân dân miền Nam, đến cuối năm 1964 đã làm cho nửa triệu quân ngụy dưới sự chỉ huy của 2,5 vạn cố vấn Mỹ đã tỏ ra bất lực, không đủ sức làm công cụ chủ yếu của "Chiến tranh đặc biệt". Phong trào phá "áp chiến lược" trong những năm 1964-1965 phát triển rộng lớn. Hệ thống ấp chiến lược của Mỹ bị phá trên 85%. Cuộc khủng hoảng của chính quyền Sài Gòn ngày càng trầm trọng. Ngày 1-11-1963, dưới sự chỉ đạo của Mỹ, lực lượng quân đảo chính đã giết chết anh em Diệm - Nhu. Từ tháng 11-1963 đến tháng 6-1965 đã diễn ra 10 cuộc đảo chính quân sự nhằm lật đổ lẫn nhau trong nội bộ chính quyền Sài Gòn.

Tháng 9-1964, Bộ Chính trị họp và chủ trương giành thắng lợi quyết định ở miền Nam trong một vài năm tới. Bộ Chính trị cử Đại tướng Nguyễn Chí Thanh - Uỷ viên Bộ Chính trị vào miền Nam trực tiếp phụ trách, chỉ đạo cuộc kháng chiến.

Được sự chi viện tích cực của miền Bắc thông qua tuyến đường Trường Sơn trên đất liền và trên biển, quân và dân miền Nam đã mở nhiều chiến dịch với hàng trăm trận đánh lớn nhỏ trên khắp các chiến trường, như ở An Lão, Đèo Nhông - Dương Liễu, Việt An, Ba Gia. (Khu V và khu vực Tây Nguyên, Trị Thiên), Bình Giã, Đồng Xoài (Nam Bộ).

Phong trào đấu tranh chính trị ở các đô thị cũng phát triển sôi động, mạnh mẽ từ giữa năm 1963 trở đi. Trước phong trào đấu tranh dồn dập và có hiệu quả của nhân dân miền Nam, đến cuối năm 1964, đầu năm 1965, ba chỗ dựa chủ yếu của Mỹ là ngụy quân ngụy quyền, hệ thống "ấp chiến lược" và các đô thị bị lung lay tận gốc.

Chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ được triển khai đến mức cao nhất đã hoàn toàn bị phá sản. Oétmolen phải thừa nhận: "Tình hình ở Việt Nam xấu đi hiện ra rõ rệt hơn bao giờ hết. Nếu chiều hướng này cứ tiếp diễn thì tiến tới sự tiếp quản của Việt Cộng ở đất nước này có lẽ nội trong một năm"

. Oétmôlen: Tường trình của một quân nhân, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, 1998, tr. 47.
.

Đánh bại chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ là một thắng lợi to lớn nữa có ý nghĩa chiến lược của quân và dân ta ở miền Nam. Thắng lợi này tạo cơ sở vững chắc để đưa cách mạng miền Nam tiếp tục tiến lên.

0