04/06/2017, 00:37

Thiên nhiên và con người trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.

Đây thôn Vĩ Dạ bề ngoài mang dáng vẻ rất cổ điển. Thể thơ, chất thơ và cấu tứ thoạt nhìn chẳng có gì mới. Hình thức thơ thất ngôn cùng với những chất liệu khá quen thuộc: nắng - hàng cau, lá trúc - mặt chữ điền, gió - mây, nước - hoa, thuyền - bến, sông - trăng... Ngay cả cách cấu tứ đi từ cảnh ...

Đây thôn Vĩ Dạ bề ngoài mang dáng vẻ rất cổ điển. Thể thơ, chất thơ và cấu tứ thoạt nhìn chẳng có gì mới. Hình thức thơ thất ngôn cùng với những chất liệu khá quen thuộc: nắng - hàng cau, lá trúc - mặt chữ điền, gió - mây, nước - hoa, thuyền - bến, sông - trăng... Ngay cả cách cấu tứ đi từ cảnh sang tình cũng dễ làm cho người đọc có cảm giác bài thơ chẳng qua là sự nới giãn của thể thơ Đường. Tuy nhiên, đi vào chiều sâu mạch ngầm bên trong bài thơ, những khuôn khổ mực thước ấy hoàn toàn ...

Cái gọi là tình quê hay tình yêu thủy chung ta thường thấy trong các lời bình xưa nay đều chỉ là sự ngộ nhận biến hồn thơ độc đáo của Hàn Mặc Tử thành thứ khuôn sáo của thi ca một thời. Sự nổi loạn trong thi pháp thơ Hàn Mặc Tử trước tiên thể hiện ỡ phương thức cấu trúc đặc biệt. Mạch thơ không phát triển theo cái logic nhất quán, tự nhiên của cảm xúc, mà có sự biến đổi bất ngờ giữa ba cảnh thơ trong ba khổ thơ tưởng chừng chẳng liên lạc gì với nhau chứng tỏ những đột biến của cõi vô thức, bất chợt và mông lung. Cảnh và người trong bài thơ chỉ mang một phần hoài niệm về một thời quá vãng, còn lại chỉ là những ảo giác siêu hình, bảng lảng đâu đó trong sương khói của tâm linh.
 
Cảnh thơ thứ nhất hiện ra khá rõ nét, đẹp với vẻ đẹp cổ điển. Ánh nắng mặt trời và hàng cau hóa thân làm một bởi phép tỉnh lược động từ: nắng hàng cau. Trời đất giao hòa, vườn thôn Vĩ như cô gái dậy thì, mướt, xanh như ngọc hứng lấy từng giọt ánh sáng long lanh. Giữa lá trúc và mặt chữ điền là một sự phối hợp mang tính chất biểu trưng: vừa quý phái sang trọng, vừa dân dã bình dị tạo nên cốt cách văn hóa của con người xứ Huế. Sự tinh khôi của đất trời và trong trẻo của lòng người trong cảnh thơ ấy có lẽ là dư âm kỷ niệm của một thời Gái quê với mối tình đầu hồn nhiên trong trắng.
 
Cảnh thơ thứ hai nhòe dần, chìm dần trong ảo giác, các chất liệu thi ca bứt phá ra ngoài khuôn khổ cấu trúc của thi ca cổ. Tứ thơ mở ra toàn những nghịch lý trái lẽ tự nhiên. Quan hệ giữa gió và mây, giữa thuyền và bến, giữa sông và trăng không còn là quan hệ gặp gỡ, gắn bó nữa mà chỉ thấy sự đối lập, phân ly. Không phải gió thổi mây bay mà gió theo lối gió, mây đường mây, cắt không gian làm hai mảnh. Nước chảy hoa trôi hóa thành dòng nước buồn thiu hoa bắp lay: nước vẫn chảy xuôi, còn hoa hững hờ như mảnh hồn cô độc không biết trôi dạt về đâu. Câu ca dao: thuyền về có nhớ bến chăng... chỉ còn là tiếng vọng mơ hồ, xa xăm: con thuyền đang chở trăng về bến nhưng còn lạc lõng tận phương trời nào. Cuộc hạnh ngộ của mối tình đầu đang biến thành xa xôi cách trở. Kỷ niệm của một thời chỉ còn là trầm tích của tương tư, nó đang bị phá vỡ ra từng mảng bởi thực tại bẽ bàng, ngang trái của duyên phận. Cảnh thơ thứ ba toàn màu trắng, cái trắng của một giấc mơ sau hàng loạt những xung động bất thường. Ai đó vừa là khách vừa là em xuất hiện trên con đường đầy sương khói. Điệp ngữ khách đường xa làm cho con đường như dài thêm ra và mở toang thành không gian vô bờ bến. Người chỉ còn là cái bóng. Sương trắng, áo trắng, hai thứ màu trắng hòa vào nhau. Cái nhân ảnh của kỷ niệm đang vỡ tan ra cùng sương khói. Cái màu trắng của ảo giác rất hư vô này đã đẩy thơ Hàn Mặc Tử đến bến bờ siêu thực: trắng như tinh, trắng rợn mình... Với Hàn Mặc Tử, đấy phải chăng là cái Thượng thanh khí của một tình yêu đang sắp được thăng hoa vào một cõi xa xôi nào đó.
 
Đây thôn Vĩ Dạ kết tụ bao nhiêu biến động của cuộc đời trần thế để rồi tan ra trong không gian vĩnh cửu, vô thường...

0