Thế nào là “đạo thầy trò”?
Quan hệ thầy trò nói riêng về mặt phong tục cũng cần có một tập sách riêng. Để trả lời cho những câu hỏi về đạo thầy trò, chúng tôi thiết nghĩ mấy dòng sơ lược thì chưa thể nào nói cho hết được. Dân tộc ta vốn tôn sư trọng đạo, dưới chính thể nào cũng vậy. Vai trò thầy iáo luôn luôn tiêu ...
Quan hệ thầy trò nói riêng về mặt phong tục cũng cần có một tập sách riêng. Để trả lời cho những câu hỏi về đạo thầy trò, chúng tôi thiết nghĩ mấy dòng sơ lược thì chưa thể nào nói cho hết được.
Dân tộc ta vốn tôn sư trọng đạo, dưới chính thể nào cũng vậy. Vai trò thầy iáo luôn luôn tiêu biểu cho tầng lớp trí thức, tiên tiến được toàn thể xã hội công hận. Nghề giáo vốn là nghề cao quí nhất. Nền giáo dục thời phong kiến cũng hư thời dân chủ đều thống nhất một phương châm "tiên học lễ hậu học văn" nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội"... Nhân tài phục vụ xã hội, điều ành bộ máy Nhà nước đều được "ông thầy", tức là khuôn mẫu, đào tạo nên, "không thầy đố mày làm nên". Tiêu chuẩn đánh giá kiến thức đều thống nhất ựa vào chế độ thi cử, có học vị, cấp bậc rõ ràng.
Vì tất cả những lẽ trên, có người đặt vấn đề: Vậy đặt thầy cao hơn cha có quá đáng không? Cha mẹ sinh ra, nuôi dưỡng mình, thầy giáo là người truyền hụ kiến thức cho mình. Sở dĩ hiển đạt, thi thô được tài năng với đời đều nhờ
thầy.
Ngày xưa, từ nhỏ đến khi đi thi đậu cử nhân, tiên sĩ thường cũng chỉ học ột thầy cùng lắm là vài ba thầy, chứ không như ngày nay mỗi năm một lớp rồi ỗi môn một thầy. Ngày xưa có nhiều trường hợp thầy trò cùng lều chóng đi thi nhưng học tài thi phận , trò đậu thầy hỏng. Có những ông thầy đào tạo được nhiều ông Nghè, ông Cống nhưng bản thân ông thầỳ lại chẳng đậu đạt gì, chẳng nhận quan tước gì, có người thi đậu cũng không ra làm quan mà chỉ tiếp tục dạy học. Có những thầy giáo đạo cao đức trọng được môn sinh nể trọng hơn cha. Thầy Chu Văn An là người thầy tiêu biểu nhất đượcliệt thờ ở Văn Miếu.
Ngày xưa, thầy đồ dạy đỗ được một số học sinh đậu đạt cử nhân, tiến sĩ thì tự nhiên vai vế trong xã hội được nâng lên rõ rệt, quan tỉnh quan huyện cũng hải kính nể, chẳng những đối với thầy giáo mà cả gia đình thầy. Quang Trung a lần mời Nguyễn Thiếp (La Sơn Phu Tử) ra làm quân sư, chính là để thu phục hân sĩ Bắc Hà, vì Nguyễn Thiếp là thầy giáo của nhiều triều thần Lê Trịnh ương thời. Ngành giáo dục tuy có chế độ thi hương, thi hội, thi đình rất nghiêm ất chặt, song rất ít giáo chức rất ít trường công, ở cấp huyện , cấp phủ chỉ có ột vài huấn đạo giáo thụ ăn lương nhà nước, hầu hết là các lớp tư thục.
Một nhà khá giả trong vùng nuôi thầy cho con ăn học , xóm làng chung uanh gửi ôn đến thụ giáo không phải nộp học phí, chỉ đến ngày mồng 5 tháng 5 gày Tết... cha mẹ học trò mới đưa lễ tết đến tết thầy tuỳ tâm. Giàu có thì thúng ạo nếp, bộ quần áo...Nghèo thì một cơi trầu một be rượu cũng xong. Môn sinh ủa một thầy thường tổ chức nhau lại gọi là Hội đồng môn, có trưởng tràng, iám tràng và một số cán tràng giúp việc trưởng tràng. Con thầy mặc dầu ít tuổi ơn cũng được gọi là thế huynh. Thầy nào có tiếng dạy giỏi, dạy nghiêm thì ược nhiều sĩ tử đến theo học , Hội đồng môn vận động các gia đình môn sinh óng góp tiền của tạo ruộng, tạo trâu bò rồi phân công cày cấy, đến mùa màng ặt tự gánh về gia đình nhà thầy để gia đình thầy chi dụng. Khi thầy mất lại ùng ruộng đó lo tang ma cho thầy, cho vợ thầy và giỗ tết tế tự về sau. Học trò ể tang thầy cũng ba năm như tang cha mẹ, nhưng không mặc tang phục, gọi là âm tang tức là để tang trong lòng.
Cụ Thượng Niên về lễ tang vợ thầy: Nguyễn Khắc Niên (1889-1954) gười Sơn Hoà, Hương Sơn, Hà Tĩnh đậu Đệ nhị giáp Tiến sĩ (tức Hoàng Giáp) hoa Đinh Mùi 1907 làm Thượng thư bộ Cải lương hương chính triều Bảo Đại.
Nguyễn Khắc Niên là học trò cụ Nguyễn Duy Dư người Sơn Tiến, một người ổi tiếng hay chữ ở huyện Hương Sơn, đã được hội Tư văn hàng huyện tôn xưng à "Hương Sơn tứ hổ". Nguyễn Khắc Niên thụ giáo cụ Dư ở cách nhà mình trên km. Đến kỳ thi Hương hai thầy trò cùng lều chõng đi thi, học trò đậu cử nhân, ược vào Huế thi Hội đậu luôn Hoàng giáp, thầy chỉ đậu Tú tài. Theo chế độ thi ử thời trước: Cử nhân mới được dự thi Hội, còn Tú tài thì phải 3 khoa Tú tài ới được thi. Ba năm mới có một khoa, thầy Tú chưa kịp chờ để thi lại khoa sau hì đã từ trần- 1909. ơn 30 năm sau, bà Tú Dư mất, lúc đó Nguyễn Khăc Niên đã lên đến chức Thượng thu trong triều. Nghe tin vợ thầy học cũ mất, ông đánh xe từ Huế về Hà Tĩnh để phúng viếng. Nhà cách sông và đường quốc lộ, Tri huyện tiếp điện đã lệnh cho Tổng lý địa phương đem kiệu và võng lọng ra tận bờ sông đón rước cụ thượng về quê lễ vợ thầy. Nhà ông bà Tú trên đỉnh đồi Sơn Trại, người trai tráng leo lên cũng cảm thấy mệt, hơn nữa sỏi đá lởm chởm. Nhưng để tỏ lòng cung kính nhớ ơn thầy, cụ thương Niên đã xuống cáng, đi chân đất có hai người lính hầu dìu hai bên, lên tận nhà thầy gần đỉnh đồi . Tất nhiên cụ Thượng thư đã đi chân đất thì từ tuần phủ tri huyện đến tổng lý cũng phải tháo hia hài cắp nách mà leo lên. Người con trưởng cụ Tú và một số gia nân khăn áo chỉnh tề đã xếp hàng đứng ở cổng. Mặc dầu chỉ là dân thường ít hơn một vài tuổi, nhưng con trai cụ Tú cũng được Cụ Thượng Niên vái chào rất cung kính (vì được coi là thế huynh).