24/05/2018, 14:18

Thâm canh nông nghiệp

0 Bản chất của thâm canh nông nghiệp Tái sản mở rộng trong nông nghiệp có thể được thực hiện theo hai phương thức: quảng canh và thâm canh. Để phân biệt hai ...

0

Bản chất của thâm canh nông nghiệp

Tái sản mở rộng trong nông nghiệp có thể được thực hiện theo hai phương thức: quảng canh và thâm canh. Để phân biệt hai phương thức này, K.Mác đã chỉ rõ: "Tái sản xuất mở rộng được thực hiện "quảng canh" nếu chỉ mở rộng diện tích ruộng đất và "thâm canh" nếu sử dụng hiệu quả hơn các tư liệu sản xuất (1).

Như vậy, quảng canh là phương thức sản xuất nhằm tăng sản lượng nông sản bằng cách mở rộng diện tích đất đai với cơ sở vật chất - kỹ thuật thấp kém, trình độ kỹ thuật lạc hậu, chủ yếu dựa vào việc sử dụng độ phì nhiêu tự nhiên của ruộng đất. Khái niệm này còn được hiểu theo nghĩa tiến bộ hơn, đó là sự tăng sản lượng nông sản dựa trên cơ sở mở rộng diện tích ruộng đất hoặc tăng số đầu gia súc với kỹ thuật không đổi.

Ngược lại, thâm canh là phương thức sản xuất tiên tiến nhằm tăng sản lượng nông sản bằng cách nâng cao độ phì nhiêu kinh tế của ruộng đất, thông qua việc đầu tư thêm vốn và kỹ thuật mới vào sản xuất nông nghiệp.

Lịch sử phát triển của sản xuất nông nghiệp trong nhiều thập kỷ, phương thức quảng canh tái sản xuất mở rộng đã chiếm ưu thế, thậm chí đến nửa đầu thế kỷ XX, nông nghiệp trên hành tinh này chủ yếu được tiến hành bằng phương thức quảng canh. Sản lượng lương thực có hạt của thế giới từ 510 triệu tấn năm 1901 tăng lên 771 triệu tấn năm 1950, trong đó chủ yếu là do mở rộng diện tích từ 508 triệu ha lên 723 triệu cùng thời gian tương ứng, nghĩa là diện tích tăng 41, 76% trong lúc đó năng suất tăng 5,68%. Với sự phát triển của xã hội, nhu cầu đòi hỏi về lượng nông sản ngày càng lớn, nhưng khả năng mở rộng diện tích bị hạn chế, con người phải chuyển sang việc nâng cao chất lượng canh tác, thông qua việc đầu tư thêm tư liệu sản xuất và sức lao động để thu được nhiều sản phẩm hơn trên đơn vị diện tích. Theo phương thức đó đến giai đoạn nhất định của lịch sử, thâm canh có ý nghĩa to lớn và đóng vai trò quyết định trong sự phát triển của nông nghiệp. Nửa sau của thế kỳ XX sản xuất lương thực không thể dựa vào việc mở rộng diện tích mà phải dựa vào khai thác chiều sâu của đất đai, bằng cách đưa những tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, trước hết là giống tốt, tiếp đó đưa phân bón hóa học và giải quyết vấn đề thuỷ lợi. Nhờ vậy mà mười năm sau - 1960 sản lượng lương thực có hạt của thế giới đã tăng lên 1.025 triệu tấn (tăng 41,77% so với năm 1950). Năm 1996 sản lượng lương thực tăng lên 2049 triệu tấn, trong lúc đó diện tích sản xuất lương thực không tăng, thậm chí có giảm xuống. Rõ ràng nửa sau của thế kỷ XX tăng sản lượng nông nghiệp đã dựa vào con đường tăng năng suất là chủ yếu. Thâm canh sản xuất nông nghiệp trở thành khuynh hướng chung có tính quy luật, gắn liền hữu cơ với sự phát triển của lực lượng sản xuất và tiến bộ khoa học kỹ thuật. Lênin đã chỉ rõ: "Hiện tượng nông nghiệp được thâm canh hóa, không là hiện tượng ngẫu nhiên, có tính chất địa phương tạm thời, mà là hiện tượng phổ biến trong tất cả các nước văn minh. (2).

Tuy nhiên, thâm canh không thể thay thế quảng canh một cách giản đơn, trên thực tế thâm canh và quảng canh (theo nghĩa tiến bộ) có quan hệ mật thiết với nhau. Quảng canh sản xuất không phải là đã ngừng hoạt động, mà tuỳ điều kiện cụ thể ở từng nước, từng giai đoạn phát triển và tuỳ từng loại cây trồng, con gia súc, chúng ta vẫn tìm thấy trong sự tác động lẫn nhau với phương thức thâm canh tái sản xuất mở rộng. ở nhiều nước trên thế giới, để tăng nhanh sản phẩm ngành chăn nuôi đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế quốc dân phải kết hợp vừa tăng nhanh suất sản phẩm trên mỗi đầu gia súc vừa tăng nhanh số lượng đầu gia súc.

là quá trình kinh tế rất đa dạng và phức tạp, đặc biệt trong điều kiện sản xuất hiện đại, khi cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và đang diễn ra một cách mạnh mẽ trên phạm vi rộng lớn. Vì vậy giải thích đúng đắn thâm canh nông nghiệp chính có ý nghĩa hết sức to lớn cả về lý luận cũng như thực tiễn.

Các nhà kinh điển của kinh tế chính trị học tư sản và các nhà kinh tế thời kỳ trước Mác chưa quan tâm và thực chất họ chưa nghiên cứu vấn đề thâm canh nông nghiệp. Khi nghiên cứu các quan hệ kinh tế trong nông nghiệp tư bản chủ nghĩa, trước hết họ chú ý đến vấn đề địa tô, lợi nhuận... và trong mối liên hệ của địa tô chênh lệch với thâm canh mà thôi, đáng chú ý là sự phân tích địa tô của D.Ricardo. Điểm nổi bật về lý thuyết địa tô của D.Ricardo là dựa trên cơ sở lý thuyết giá trị lao động. Ông cho rằng do "đất đai canh tác bị hạn chế" độ màu mỡ của đất đai giảm sút, "năng suất đầu tư đem lại không tương xứng", trong khi dân số tăng nhanh làm cho các tư liệu sinh hoạt ngày càng khan hiếm. Điều này buộc loài người phải canh tác trên ruộng đất xấu và vì vậy giá trị nông sản phẩm do hao phí lao động trên ruộng đất xấu nhất quyết định.

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, khi nghiên cứu những tính quy luật về sự phát triển của nông nghiệp tư bản chủ nghĩa đã xuất phát từ quan điểm kinh tế rằng, quá trình thâm canh là sự tập trung tư bản trên một đơn vị diện tích, K.Mác viết: "... Về mặt kinh tế học chúng ta hiểu thâm canh không có gì khác hơn là tập trung hóa tư bản trên cùng một thửa đất chứ không phải là phân tán trên nhiều thửa đất song song với nhau (3). Trong các tác phẩm của Lênin dành cho vấn đề nông nghiệp, cùng với việc bảo vệ quan điểm Mác xít về vấn đề thâm canh nông nghiệp, Lênin đã phát triển thêm lý luận về vấn đề này, "nền nông nghiệp phát triển chủ yếu bằng thâm canh, không phải bằng cách tăng diện tích ruộng đất cày cấy, mà bằng cách nâng cao chất lượng công việc đồng áng, bằng cách tăng mức tư bản đầu tư vào diện tích đất đai đã có trước đó (4). ở chỗ khác Lênin viết tiếp: "Thâm canh là gì? Là một sự chi phí thêm về lao động và tư bản (6). Như vậy theo quan điểm của Mác và Lênin, thâm canh nông nghiệp tư bản chủ nghĩa trước hết là quá trình tập trung hóa tư bản trên đơn vị diện tích ruộng đất.

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đã nhấn mạnh mối liên hệ hữu cơ giữa thâm canh nông nghiệp với sự phát triển của lực lượng sản xuất và áp dụng những thành tựu của tiến bộ khoa học - công nghệ trong nông nghiệp. Lênin đã chỉ rõ: "Vậy, việc đầu tư tư bản vào ruộng đất có ý nghĩa là gì? Điều đó có nghĩa là những thay đổi về kỹ thuật trong nông nghiệp, là tiến hành thâm canh nông nghiệp, là chuyển sang chế độ canh tác cao hơn, là tăng cường dùng nhiều phân bón nhân tạo, là cải tiến công cụ và máy móc, là ngày càng dùng nhiều lao động làm thuê (5). ở chỗ khác Lênin nhấn mạnh: "Vậy là sự thâm canh trong nông nghiệp, tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp, việc cải tiến cách trồng trọt tiến triển ở đây hết sức nhanh chóng (7). Như vậy, việc nhấn mạnh mối quan hệ giữa đầu tư và áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở để kết luận rằng, không phải mọi đầu tư phụ thêm tư bản luôn luôn là dấu hiệu chủ yếu của nội dung thâm canh nông nghiệp, mà chỉ khi các điều kiện khác không đổi (trước hết là điều kiện tự nhiên) đầu tư được thực hiện trên cơ sở áp dụng những thành tựu khoa học - công nghệ mới.

Về nội dung kinh tế của thâm canh nông nghiệp, Mác và Lênin không chỉ nhấn mạnh việc tập trung hóa tư bản trên đơn vị diện tích mà còn nhấn mạnh các mối liên hệ và phụ thuộc giữa đầu tư với kết quả của chúng, được phản ánh trong việc tăng lên khối lượng sản phẩm trên đơn vị diện tích. Đó là mối liên hệ nhân quả phức tạp và chế ước lẫn nhau trong quá trình thâm canh nông nghiệp. Lênin viết: "Do những đặc điểm kỹ thuật của nông nghiệp, nên quá trình thâm canh nông nghiệp rất thường hay làm cho quy mô đơn vị kinh doanh tăng lên, sản xuất và chủ nghĩa tư bản phát triển lên trong khi diện tích trung bình của ruộng đất trồng trọt trong đơn vị kinh doanh giảm đi(8).

Mặc dù Mác và Lênin không đặt ra mục đích nghiên cứu và đưa ra một định nghĩa đầy đủ về thâm canh nông nghiệp, đặc biệt trong điều kiện phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học - công nghệ, song trong các tác phẩm của mình, Mác và Lênin đã giải thích những yếu tố cấu thành quan trọng nhất về nội dung kinh tế của thâm canh nông nghiệp. Đó là cơ sở lý luận khá đầy đủ để có sự nhận thức đúng đắn về nội dung kinh tế của thâm canh nông nghiệp. Cho đến nay, nhiều nhà lý luận kinh tế nông nghiệp chưa có sự thống nhất về bản chất thâm canh và trong thời gian khá dài các cuộc tranh luận vẫn chưa kết thúc. Có thể chia thành hai nhóm chủ yếu: Nhóm các nhà kinh tế thứ nhất, xem xét bản chất của thâm canh chủ yếu là đầu tư phụ thêm về tư liệu sản xuất và lao động mà không gắn liền với kết quả sản xuất. ở nhóm thứ hai, thâm canh được giải thích chủ yếu ở sự tăng thêm sản phẩm trên đơn vị diện tích mà coi thường hoặc đánh giá thấp những nhân tố ảnh hưởng đến sự tăng lên đó, trong đó cả đầu tư phụ thêm về tư liệu sản xuất. Cả hai quan điểm trên đều không đầy đủ, vì bản chất của thâm canh không thể xem xét một cách phiến diện và cắt xén, chỉ chú ý đầu tư phụ thêm mà không gắn với kết quả sản xuất đem lại và ngược lại. Cần thiết phải xuất phát từ toàn bộ tính quy luật của thâm canh và mối liên hệ nhân quả tồn tại giữa hình thức và nội dung của nó.

Bản chất của thâm canh nông nghiệp là quá trình đầu tư phụ thêm tư liệu sản xuất và sức lao động trên đơn vị diện tích, hoàn thiện không ngừng các biện pháp kỹ thuật, tổ chức và những yếu tố khác của sản xuất với mục đích nâng cao độ phì nhiêu kinh tế của ruộng đất, nhằm thu được nhiều sản phẩm trên một đơn vị diện tích, với chi phí thấp trên đơn vị sản phẩm.

Định nghĩa trên nêu bật mấy yếu tố chủ yếu sau:

- Nhấn mạnh mặt nhân tố của quá trình thâm canh - quá trình đầu tư phụ thêm về tư liệu sản xuất và lao động trên đơn vị diện tích, nó là cơ sở kinh tế của thâm canh nông nghiệp.

- Các đầu tư thêm về tư liệu sản xuất và lao động phải trên cơ sở hoàn thiện không ngừng về công nghệ sản xuất. Đó là cơ sở kỹ thuật của thâm canh sản xuất nông nghiệp. Khi đó những đầu tư thêm mới tạo ra được sự tăng thêm sản lượng nông sản trên một đơn vị diện tích.

- Phản ánh mối liên hệ nhân quả giữa mặt nhân tố và kết quả của quá trình thâm canh nông nghiệp. Thực hiện đầu tư phụ thêm là nhằm mục đích thu được nhiều sản phẩm hơn trên đơn vị diện tích.

- Hình thành mối liên hệ giữa thâm canh và hiệu quả sản xuất. Thực hiện đầu tư bổ sung không chỉ tăng khối lượng sản phẩm trên đơn vị diện tích, mà còn nhằm hạ thấp chi phí lao động xã hội trên đơn vị sản phẩm.

Thâm canh sản xuất là khuynh hướng có tính quy luật trong quá trình sản xuất nông nghiệp. Nó nảy sinh không phải do hình thái kinh tế nhất định của sản xuất xã hội, mà do sự phát triển của lực lượng sản xuất và những điều kiện vật chất đặc thù của sản xuất nông nghiệp. Quá trình thâm canh sản xuất nông nghiệp hoàn toàn không xuất phát từ ý muốn chủ quan của một ai đó, mà đó là quá trình tất yếu gắn với các điều kiện kinh tế - kỹ thuật và xã hội nhất định. Thực tiễn đã chứng minh, từ nửa đầu thế kỷ XX trở về trước quá trình gia tăng sản lượng nông sản chủ yếu dựa vào sự mở rộng diện tích đất canh tác. Điều kiện xã hội lúc bấy giờ là dân số trên hành tinh của chúng ta chưa quá đông so với quỹ đất canh tác có thể mở rộng. Bên cạnh đó, trình độ phát triển về khoa học - công nghệ cũng chưa cho phép nhân loại có thể thâm canh để gia tăng sản lượng nông sản. Từ những năm 50 của thế kỷ XX trở đi, với ức ép của sự gia tăng dân số, nhu cầu thực phẩm của xã hội tăng lên nhanh chóng. Quá trình đó buộc nhân loại phải chuyển nhanh từ quảng canh sang thâm canh để thoả mãn nhu cầu thực phẩm cho xã hội. Hơn nữa, với sự phát triển của khoa học công nghệ trong thời kỳ từ nửa sau thế kỷ XX trở đi, đã tạo ra cơ sở kỹ thuật cho phép nhân loại có thể thực hiện thâm canh. Tóm lại, trong quá trình phát triển của nhân loại, đến một lúc nào đó, để thoả mãn nhu cầu thực phẩm loài người buộc phải thâm canh và có khả năng thực hiện thâm canh sản xuất nông nghiệp. Đó là tính tất yếu của quá trình thâm canh.

Cho đến nay, thâm canh sản xuất nông nghiệp đã và đang được thực hiện trong điều kiện của hai hệ thống, gắn với trình độ phát triển cao của khoa học và công nghệ: hệ thống Tư bản chủ nghĩa và hệ thống Xã hội chủ nghĩa. Thâm canh là quá trình đặc trưng cho sự phát triển của các nước Tư bản chủ nghĩa, cũng như Xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên để phân biệt sự khác nhau giữa thâm canh nông nghiệp Xã hội chủ nghĩa và Tư bản chủ nghĩa, người ta tìm thấy ở mục đích tiến hành, phương pháp thực hiện, nhịp độ phát triển và kết quả đem lại, có nghĩa là phân biệt về mặt kinh tế xã hội của thâm canh, chứ không phải mặt nội dung vật chất và cơ sở kỹ thuật của nó.

Trong điều kiện tư bản chủ nghĩa, thâm canh nông nghiệp phục tùng mục đích cơ bản của sản xuất tư bản chủ nghĩa là lợi nhuận tối đa, và được coi là tiêu chuẩn duy nhất của hiệu quả sản xuất. Với khát vọng để nhận được lợi nhuận cao, nhà tư bản tiến hành đầu tư liên tục dưới hình thức tư liệu sản xuất và lao động làm thuê với kết quả của nó không chỉ bóc lột lao động làm thuê, mà còn bóc lột cả ruộng đất. Họ chỉ tiến hành thâm canh chừng nào đem lại lợi nhuận lớn hơn và nếu không đạt được mục đích trên, nhà tư bản sẵn sàng từ chối con đường thâm canh sản xuất.

Quá trình thực hiện thâm canh nông nghiệp Tư bản chủ nghĩa phải khắc phục nhiều mâu thuẫn gay gắt, trước hết là sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, đặc biệt sở hữu tư nhân về ruộng đất là trở ngại lớn cho nền kinh tế sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa. Trong quá trình sản xuất tồn tại mâu thuẫn gay gắt giữa chủ ruộng đất và nhà đầu tư kinh doanh, biểu hiện tập trung ở thời hạn hợp đồng thuê ruộng. Sau khi phân tích những mâu thuẫn trên, Mác đã kết luận: "Vậy là những người đó (sinh ra để hưởng của đời) - bỏ vào túi họ cái thành quả của sự phát triển xã hội, mà họ đã không hề góp công vào đó. Nhưng đồng thời cái lối đó cũng là một trong những trở ngại lớn cho việc hợp lý hóa nông nghiệp, vì người fermier tránh mọi việc cải thiện chất đất và mọi khoản chi phí mà họ không mong thu về được hết trong thời gian thuê (9).

Một trong những đặc điểm thâm canh nông nghiệp tư bản chủ nghĩa là sự phát triển không đồng đều giữa các doanh nghiệp với hộ tiểu nông và giữa các vùng trong nước. ở xí nghiệp lớn tư bản chủ nghĩa áp dụng những thành tựu kỹ thuật mới vào sản xuất, thâm canh đạt trình độ cao, ngược lại bên cạnh các xí nghiệp lớn còn tồn tại các trang trại nhỏ, một mặt họ không thể sử dụng đầy đủ kỹ thuật mới vào sản xuất để thực hiện thâm canh, mặt khác các trang trại nhỏ bị sản xuất lớn Tư bản chủ nghĩa chèn ép làm cho hàng triệu trang trại nhỏ bị phá sản và trở thành đội quân thất nghiệp sẵn sàng bán sức lao động rẻ mạt cho nhà tư bản.

Kết quả xã hội của quá trình thâm canh trong nông nghiệp tư bản chủ nghĩa là một mặt đó là sự hạn chế phạm vi mở rộng và tập trung hóa sản xuất, mặt khác gắn liền với sự huỷ hoại trên quy mô lớn và bần cùng hóa các trang trại nhỏ. được phát triển với nhịp độ nhanh bao nhiêu thì nhịp độ và phạm vi huỷ hoại các nguồn lực trong nông nghiệp càng lớn bấy nhiêu. Đó là đặc trưng nổi bật của thâm canh nông nghiệp tư bản chủ nghĩa trong thời đại ngày nay, khi mà sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ diễn ra một cách nhanh chóng và trên phạm vi rộng lớn.

Mục đích chủ yếu của thâm canh nông nghiệp Xã hội chủ nghĩa là sản xuất nhiều sản phẩm với chất lượng cao, giá thành hạ, nhằm thoả mãn nhu cầu không ngừng tăng lên của nền kinh tế quốc dân.

Ruộng đất ở nước ta thuộc sở hữu toàn dân, được giao cho các hộ nông dân sử dụng ổn định và lâu dài, địa tô chênh lệch II do thâm canh tạo ra phần lớn được phân phối cho các hộ nông dân, phần còn lại được tích luỹ cho Nhà nước. Vì vậy, nó có tác dụng kích thích các hộ nông dân đẩy mạnh thâm canh.

là tất yếu khách quan, là phương thức chủ yếu của nông nghiệp. Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể về kinh tế xã hội của ta, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm đến vấn đề thâm canh trong nông nghiệp.

Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ IV (1976) đã khẳng định: "Coi trọng cả ba mặt, thâm canh, tăng vụ và mở rộng diện tích (10). Trên cơ sở phân tích những sai lầm và thiếu sót trong lĩnh vực nông nghiệp nói chung, thâm canh nông nghiệp nói riêng, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã chỉ rõ: "Bảo đảm cho nông nghiệp, kể cả lâm nghiệp, ngư nghiệp thật sự là mặt trận hàng đầu, được ưu tiên đáp ứng nhu cầu về vốn đầu tư, về năng lượng, vật tư và lao động kỹ thuật, tập trung cho những vùng trọng điểm nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao (11).

Báo cáo của BCH Trung ương tại Đại hội Đảng lần thứ IX (2001) đã nhấn mạnh: "Tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, đẩy mạnh thuỷ lợi hóa, cơ giới hóa, điện khí hóa, quy hoạch sử dụng đất hợp lý, đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị thu được trên đơn vị diện tích, giải quyết vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hóa(12).

Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 cũng nhấn mạnh: "Đưa nhanh tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, đạt mức tiên tiến trong khu vực về trình độ công nghệ và về thu thập trên một đơn vị diện tích, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm (13).

Những chỉ tiêu đánh giá trình độ và hiệu quả kinh tế của thâm canh nông nghiệp

được đặc trưng bằng hệ thống các nhân tố và biện pháp, phản ánh sự tổng hợp và những mối quan hệ tác động qua lại của chúng. Vì vậy để đo lường trình độ và hiệu quả kinh tế của thâm canh, hệ thống chỉ tiêu đảm bảo sự so sánh một cách khoa học về chi phí và kết quả trong quá trình thực hiện thâm canh nông nghiệp.

Khi sử dụng hệ thống chỉ tiêu để phân tích trình độ và hiệu quả kinh tế của thâm canh, trước hết cần xác định thời hạn nghiên cứu. Thông thường thời hạn nghiên cứu càng dài càng tốt nhằm loại trừ ảnh hưởng bất lợi của điều kiện tự nhiên đối với kết quả sản xuất nông nghiệp. Cần kiểm tra nguồn thông tin hiện có bằng cách kiểm tra độ tiên cậy số học của thông tin và kiểm tra kết quả tính toán. Xác định rõ nhiệm vụ phân tích và ứng dụng các phương pháp phân tích thích hợp để thực hiện tốt nhiệm vụ đặt ra cho việc phân tích.

Khi đánh giá và so sánh tình hình thâm canh giữa các doanh nghiệp, giữa các vùng, các địa phương... cần chú ý lựa chọn các doanh nghiệp, các vùng có điều kiện kinh tế và tự nhiên giống nhau hoặc gần giống nhau với khoảng thời gian tương tự.

Chỉ tiêu đánh giá trình độ thâm canh nông nghiệp.

hệ thống chỉ tiêu các nhân tố.

Chỉ tiêu khái quát - nhằm phản ánh đầu tư tổng hợp trên đơn vị diện tích đặc trưng cho toàn bộ quá trình thâm canh và các chỉ tiêu bộ phận - nhằm phản ánh từng yếu tố chủ yếu nhất của đầu tư, đặc trưng từng mặt của quá trình thâm canh.

Các chỉ tiêu khái quát bao gồm:

- Tổng số vốn sản xuất (bao gồm vốn cố định và vốn lưu động) trên đơn vị diện tích. Chỉ tiêu này phản ánh đầy đủ nhất tư liệu sản xuất và lao động ứng trước. Ưu việt của vốn sản xuất biểu hiện chủ yếu ở sự tập trung hóa đầy đủ nhất các nhân tố và điều kiện vào quá trình sản xuất. Khuynh hướng chung trong việc thay đổi các nhân tố của vốn sản xuất thông thường là sự tăng lên của vốn lưu động trên đơn vị diện tích với việc hạ thấp chi phí lao động sống và thù lao lao động. Nhưng do các yếu tố khác nhau cấu thành vốn sản xuất có chức năng khác nhau trong quá trình sản xuất và tham gia không giống nhau trong việc tạo thành giá trị sản phẩm, nên khi sử dụng chỉ tiêu này cần kèm theo chỉ tiêu khác để đảm bảo tính chất toàn diện của quá trình thâm canh.

- Tổng chi phí sản xuất (bao gồm chi phí thực tế về tư liệu sản xuất và lao động) trên đơn vị diện tích. Chỉ tiêu này phản ánh đầy đủ nhất chi phí thực tế và nó có ý nghĩa trực tiếp để tăng khối lượng sản phẩm trên đơn vị diện tích. Thông qua chỉ tiêu này có thể so sánh chính xác hơn kết quả thu được với chi phí đã tiêu hao, từ đó xác định được lượng tuyệt đối của kết quả sản xuất và hiệu quả kinh tế trong quá trình thực hiện thâm canh. Tuy nhiên, chỉ tiêu này không phản ánh được toàn bộ lượng vốn sản xuất ứng trước mà thiếu khoản này không thể nhận được kết quả sản xuất. Vì thế khi sử dụng chỉ tiêu này phải đồng thời sử dụng chỉ tiêu vốn sản xuất trên đơn vị diện tích.

Các chỉ tiêu bộ phận bao gồm:

- Tổng số vốn cố định trên đơn vị diện tích. Nó biểu hiện dưới hình thức máy móc, công cụ, các phương tiện giao thông, cây lâu năm, súc vật cày kéo và sinh sản... có vai trò quan trọng đặc biệt trong việc tăng sản phẩm trên đơn vị diện tích và hạ thấp chi phí sản xuất. Chỉ tiêu này có ý nghĩa trực tiếp đến việc nâng cao vốn trang bị lao động, nâng cao năng suất lao động sống và hiệu quả sản xuất.

- Giá trị công cụ máy móc trên đơn vị diện tích. Là bộ phận cấu thành trong vốn cố định, máy móc có tác động trực tiếp đến việc hạ thấp chi phí lao động trên đơn vị diện tích, đồng thời có ảnh hưởng gián tiếp đến việc tăng khối lượng sản phẩm, thông qua việc tạo điều kiện để thực hiện các biện pháp kỹ thuật nông học trong thời hạn thuận lợi nhất cho sự phát triển của cây trồng.

- Số lượng phân hữu cơ và phân hóa học nguyên chất trên đơn vị diện tích.

Số lượng, chất lượng và cơ cấu các loại phân bón (bao gồm cả hữu cơ và vô cơ) có ý nghĩa trực tiếp để nâng cao khả năng sản xuất của ruộng đất và cây trồng, trên cơ sở đó để tăng sản phẩm trên đơn vị diện tích.

- Cơ cấu giống tốt trong ngành trồng trọt và chăn nuôi. áp dụng giống tốt có năng suất cao là một trong những biện pháp có hiệu quả thâm canh nông nghiệp, không chỉ làm tăng năng suất cây trồng và sản phẩm gia súc, mà còn tiết kiệm được chi phí sản xuất, tăng thu nhập.

- Tỷ trọng diện tích được tưới tiêu chủ động và tưới tiêu khoa học. Việc bảo đảm lượng nước cho cây trồng theo các thời kỳ phát triển có các tác dụng to lớn trong việc nâng cao năng suất cây trồng, đặc biệt ở nơi thiếu độ ẩm, mưa lũ và hạn hán thường xảy ra.

- Trình độ phát triển ngành chăn nuôi - phản ánh mối quan hệ và sự phối hợp giữa ngành trồng trọt và chăn nuôi, nếu thiếu chúng thì không thể phát triển nền nông nghiệp hợp lý. Trình độ chăn nuôi được biểu hiện ở chỉ tiêu số lượng và chất lượng. Chỉ tiêu số lượng phản ánh mật độ của gia súc (thông qua từng loại và gia súc tiêu chuẩn). Chỉ tiêu chất lượng thông qua việc xác định cơ cấu giống gia súc và số lượng, chất lượng sản phẩm sản xuất trên đơn vị diện tích.

- Thay đổi cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi - phản ánh việc nâng cao trình độ thâm canh là gắn liền với việc tăng tỷ lệ diện tích những cây trồng hoặc những đầu gia sức có chất lượng cao để từ đó nhận được nhiều sản phẩm hơn trên đơn vị diện tích.

- Số lượng thức ăn tiêu chuẩn cho một đầu gia súc tiêu chuẩn. Việc cung cấp đầy đủ về số lượng với chất lượng cao của thức ăn cho gia súc có ý nghĩa quyết định để nâng cao năng suất sản phẩm của chúng.

Hệ thống chi tiêu kết quả.

Nhóm chỉ tiêu này được phân thành: chỉ tiêu kết quả trực tiếp và chỉ tiêu tổng hợp.

Chỉ tiêu kết quả trực tiếp bao gồm:

- Giá trị sản xuất trên đơn vị diện tích. Giá trị sản xuất trên đơn vị diện tích phản ánh mục tiêu sản xuất và biểu hiện chính xác nhất quá trình thâm canh như là hình thức của tái sản xuất mở rộng được đặc trưng trước hết là sự thay đổi quy mô sản phẩm sản xuất ra. Trong điều kiện của ta, bình quân ruộng đất đầu người thấp, quá trình thâm canh nông nghiệp nhằm đạt giá trị sản xuất cao nhất trên đơn vị diện tích có ý nghĩa rất to lớn, nhất là ở giai đoạn hiện nay. Do giá trị sản xuất chứa đựng đồng thời giá trị chuyển vào và giá trị mới sáng tạo ra với tỷ lệ khác nhau, vì thế khi sử dụng chỉ tiêu này đòi hỏi phải kết hợp với các chỉ tiêu khác để xác định trình độ thâm canh nông nghiệp.

- Năng suất cây trồng và sản phẩm gia súc là chỉ tiêu trực tiếp nhất phản ánh trình độ thâm canh nông nghiệp. Chỉ tiêu này còn là cơ sở vững chắc để đánh giá những khả năng tăng lên của sản phẩm trên đơn vị diện tích, nó được sử dụng như là cơ sở để phân tích chính xác hơn và đánh giá sự hợp lý về kết quả đầu tư đã thực hiện và trình độ sử dụng các điều kiện tự nhiên để phát triển sản xuất.

Chỉ tiêu kết quả tổng hợp nhằm đánh giá tính chất hợp lý và lợi ích kinh tế của quy mô và cơ cấu đầu tư về tư liệu sản xuất và lao động trong những điều kiện nhất định của sản xuất . Các chỉ tiêu kết quả tổng hợp bao gồm:

- Giá trị mới sáng tạo ra trên đơn vị diện tích. Đây là chỉ tiêu đặc biệt quan trọng đặc trưng cho sự phát triển kinh tế nói chung và của thâm canh nông nghiệp nói riêng. Chỉ tiêu này biểu hiện một cách cụ thể những khả năng của thâm canh tái sản xuất mở rộng về sức lao động cũng như vốn sản xuất. Sự tăng lên của giá trị mới sáng tạo ra trên đơn vị diện tích với nhịp độ lớn hơn so với giá trị sản lượng khi các điều kiện khác không thay đổi thể hiện sử dụng tốt hơn tư liệu vật chất.

- Lợi nhuận là chỉ tiêu kết quả kinh tế cuối cùng của sản xuất. Trong hình thức tổng hợp, chỉ tiêu này phản ánh đầy đủ hơn các mặt quan trọng nhất của quá trình thâm canh tăng khối lượng sản phẩm trên đơn vị diện tích, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm tương đối lao động sống. Lợi nhuận biểu hiện đầy đủ nhất những khả năng tái sản xuất mở rộng trong nông nghiệp và tham gia vào tích luỹ xã hội. Tuy nhiên, đối với các trang trại và hộ nông dân, việc tính lợi nhuận là rất khó, bởi lẽ chưa tính được giá trị của lao động của trang trại, hộ nông dân trong đó bao gồm giá trị lao động trực tiếp sản xuất và lao động quản lý của chủ trang trại và chủ hộ.

Những chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế của thâm canh nông nghiệp.

Nhiệm vụ chủ yếu đặt ra trong quá trình thâm canh là đảm bảo hiệu quả kinh tế của sản xuất không ngừng tăng lên. Việc tăng đầu tư lao động vật hóa và lao động sống trên đơn vị diện tích là phương diện để đạt hiệu quả cao hơn của thâm canh. Song, hiệu quả kinh tế của thâm canh nông nghiệp là hiện tượng phức tạp, vì nó được thực hiện, một mặt, trên cơ sở áp dụng những thành tựu của tiến bộ khoa học - công nghệ và mặt khác, trong mối quan hệ và phụ thuộc của bản thân thâm canh và tiến bộ khoa học - công nghệ với các tư liệu sinh học (cây trồng và gia súc) và với việc sử dụng ruộng đất như là tư liệu sản xuất chủ yếu trong nông nghiệp. Trong quá trình sản xuất nông nghiệp, đầu tư bổ sung trên đơn vị diện tích được thực hiện một cách liên tục ở mức nhất định. Hiệu quả sản xuất đem lại là kết quả tác động tổng hợp của tư liệu sản xuất sẵn có và tư liệu sản xuất đầu tư bổ sung, thông thường tư liệu sản xuất bổ sung được hoàn thiện hơn cho phép nâng cao hiệu quả của những tư liệu sản xuất đã đầu tư và sử dụng trước đó. Sự tác động này có thể có thể tác động trực tiếp - thông qua việc nâng cao chất lượng những tư liệu sản xuất tương tự được sử dụng, có thể gián tiếp - thông qua cơ cấu số lượng hợp lý hơn giữa đầu tư công nghệ mới và cũ nhằm đảm bảo ảnh hưởng tổng hợp để tăng hiệu suất của ruộng đất, cây trồng và gia súc.

Xuất phát từ bản chất kinh tế của thâm canh và hiệu quả kinh tế của nó, những chỉ tiêu đánh giá trình độ thâm canh là cơ sở để tính toán hiệu quả kinh tế của thâm canh công nghiệp. ở đây hiệu quả kinh tế của thâm canh cần so sánh kết quả sản xuất với đầu tư chung và so sánh phần tăng lên của kết quả sản xuất và đầu tư bổ sung, chủ yếu là so sánh thu nhập thuần tuý với chỉ tiêu nhân tố khái quát.

Chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của thâm canh bao gồm:

Mức doanh lợi:

- Là chỉ tiêu khái quát nhất về hiệu quả sản xuất nói chung và của thâm canh nông nghiệp nói riêng.

Mức doanh lợi có thể biểu hiện bằng mối quan hệ so sánh về lượng của thu nhập và chi phí sản xuất, hoặc của thu nhập với tổng số vốn sản xuất (vốn cố định và vốn lưu động, trừ phần khấu hao). Thu nhập tính bằng cách lấy tổng giá trị sản xuất trừ đi tổng chi phí sản xuất. (Thu nhập và giá trị mới sáng tạo ra là hai cách gọi khác nhau của cùng một chỉ tiêu).

Mặc dù mức doanh lợi là chỉ tiêu quan trọng nhất để đo lường hiệu quả kinh tế của thâm canh nhưng không phải bao giờ mức doanh lợi cao cũng bảo đảm thu nhập nhiều hơn trên đơn vị diện tích.

Mức doanh lợi của đầu tư bổ sung:

- Là quan hệ so sánh giữa phần tăng lên của thu nhập với đầu tư bổ sung. Chỉ tiêu này có thể biểu hiện bằng mối quan hệ so sánh về lượng giữa phần tăng lên của thu nhập với phần chi phí sản xuất bổ sung, hoặc giữa phần tăng lên của thu nhập với phần vốn sản xuất bổ sung.

Ngoài hai chỉ tiêu trên có thể sử dụng thêm: Giá trị sản phẩm hàng hóa sản xuất ra trên đơn vị diện tích và trên một lao động; năng suất lao động; dung lượng vốn cố định và chi phí vật chất trên 100 đồng giá trị sản xuất.

Phân tích tình hình thực hiện thâm canh nông nghiệp cần xem xét cơ cấu lao động quá khứ và lao động sống đầu tư trên một đơn vị diện tích. Như là xu hướng có tính quy luật trong quá trình thực hiện thâm canh, tỷ trọng tương đối của lao động quá khứ tăng lên, còn lao động sống giảm cả tương đối và tuyệt đối. Nhưng trong điều kiện cụ thể của ta hiện nay, khi cơ sở vật chất - kỹ thuật nông nghiệp còn thấp nguồn lao động phong phú chưa được sử dụng hết, để phục vụ thâm canh, các doanh nghiệp nông nghiệp, chủ trang trại, chủ hộ nông dân cần khai thác tiềm năng to lớn này, một mặt sử dụng lao động vào việc xây dựng cơ sở vật cahát - kỹ thuật phục vụ thâm canh, mặt khác đầu tư trực tiếp vào những khâu có tác động lớn đến việc nâng cao năng suất cây trồng và năng suất sản phẩm vật nuôi.

Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.

là con đường kinh doanh chủ yếu, là giải pháp chính để tăng sản lượng nông nghiệp ở nước ta. Nhận thức được điều đó, trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã quan tâm đầu tư vốn cho nông nghiệp, từng bước xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn phục vụ thâm canh. Vốn đầu tư ngân sách dành cho nông nghiệp không ngừng tăng, từ 6,07 tỷ năm 1986 (theo giá hiện hành) tăng lên 409 tỷ đồng năm 1990, lên 2.216,6 tỷ đồng năm 1995 và lên 5.124,2 tỷ đồng năm 1999. Nếu lấy năm 1990 làm gốc thì năm 1999 lượng vốn đầu tư cho nông nghiệp qua ngân sách tăng lên 15,5 lần, bình quân hàng năm vốn đầu tư cho nông nghiệp giai đoạn 1991 -1995 tăng 40,21% và giai đoạn 1996 - 1999 tăng 18, 25% là tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư rất cao. Tỷ trọng vốn đầu tư nông nghiệp so với tổng vốn đầu tư ngân sách có xu hướng tăng trong những năm gần đây, từ 16,32% năm 1995 tăng lên 18,42% năm 1998 và lên 19,56% năm 1999. Tính bình quân 1 ha năm 1990 đạt 0,058 triệu đồng tăng lên 0,3012 triệu đồng năm 1995 và 0,5227 triệu đồng vốn đầu tư cơ bản cho 1 ha đất nông nghiệp năm 1998. Trong đó vốn đầu tư thuỷ lợi đạt 0,042 triệu đồng năm 1990 tăng lên 0,263 triệu đồng năm 1995 và lên 0,338 triệu đồng năm 1998. Trong tổng số vốn đầu tư cho nông nghiệp, phần lớn dành cho đầu tư thuỷ lợi, năm 1990 vốn đầu tư thuỷ lợi chiếm 73,27%, năm 1995 tỷ trọng này là 87,40% và năm 1999 là 80,35%. Năng lực tưới, tiêu hàng năm tăng lên, năm 1995 năng lực tưới đạt 134,4 ngàn ha, năm 1997 tăng thêm 564,9 ngàn ha, năm1999 tăng thêm 386 ngàn ha. Tương tự năng lực tiêu nước tăng thêm 46,0 ngàn năm 1995, 386,2 ngàn ha năm 1997 và 106,4 ngàn năm 1999.

Ngoài vốn đầu tư ngân sách, vốn tín dụng Nhà nước cho nông dân vay để đầu tư phát triển nông nghiệp rất lớn. Đến cuối năm 1999 số dư nợ của hộ lên tới 21.148 tỷ đồng, bình quân 1 ha gieo trồng có số dư nợ 1,744 triệu đồng.

Số lượng đầu máy kéo trang bị cho nông nghiệp tăng nhanh, năm 1990 cả nước có 25.086 đầu máy kéo, trong đó máy kéo lớn chiếm 28,73%, đã tăng lên 97.817 đầu máy kéo năm 1995, trong đó máy kéo lớn chiếm 26,65% và lên 122.958 đầu máy năm 1998, trong đó máy kéo lớn chiếm 29,97%. Tốc độ tăng trưởng hàng năm số đầu máy kéo khá nhanh, thời kỳ 1991 - 1998 bình quân hàng năm trang bị máy kéo lớn tăng 22,62%, trong đó giai đoạn 1991 - 1995 tăng nhanh - 29.32%a và giai đoạn 1996 - 1998 tăng chậm hơn -12,24%. Số lượng đầu máy nhỏ tăng bình quân thời kỳ 1991 - 1998 đạt 21,72 trong đó giai đoạn 1991 - 1995 tăng trưởng cao hơn - 31,84% và chậm lại ở giai đoạn 1996 - 1998, đạt 6,54%. Tính trên 100 ha đất nông nghiệp năm 1990 có 0,358 đầu máy kéo các loại, tăng lên 1,29 đầu máy kéo năm 1995 và lên 1,472 đầu máy kéo năm 1997.

Lượng phân bón hóa học tăng đáng kể, từ 1.419,4 ngàn tấn (đạm quy chuẩn) năm 1985 tăng lên 2.109,7 ngàn tấn năm 1990, tăng lên 2.755,8 ngàn tấn năm 1997 và lên 2856,0 ngàn tấn năm 1998. Nếu tính trên 1 ha diện tích giao trồng năm 1985 đạt 165,88kg/ha tăng lên 233,37 kg/ha năm 1990, năm 1995 giảm xuống 216,13 kg/ha và lên 244kg/ha năm 1998.

Đàn lợn cả nước tăng lên nhanh, từ 11,807 triệu con năm 1985 lên 12,260 triệu con năm 1990, lên 16,306 triệu con năm 1995 là lên 18,132 triệu con năm 1998. Tính trên 1 ha gieo trồng cả nước đạt 1,36 con năm 1990 tăng lên 1,49 con năm 1995 và lên 1,55 con lợn năm 1998, trong đó vùng Đồng bằng sông Hồng đạt 2,01 con năm 1990 tăng lên 2,59 con năm 1995 và 2,82 con năm 1998.

Cùng với việc tăng cường đầu tư vốn, củng cố, nâng cấp và xây dựng mới hệ thống hạ tầng kỹ thuật phục vụ thâm canh nông nghiệp, Nhà nước đã hỗ trợ, tạo điều kiện để các chủ trang trại, hộ nông dân ứng dụng những biến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất, từng bước áp dụng công nghệ sinh học để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản xuất. Tiến bộ khoa học và công nghệ nông nghiệp được coi trọng, trước hết là khâu giống cây trồng và vật nuôi. Nhà nước không những quan tâm khâu chọn lọc, bình tuyển, lai tạo giống mà rất quan tâm đến việc chuyển giao các giống tốt đến tay nông dân. Nhờ vậy mà tỷ lệ giống tốt được sử dụng tăng lên, năm 2000 cả nước đã cấy trên 450 ngàn ha giống lúa lai, đã tạo được trên 400 ngàn con bò giống thuộc chương trình zebu hóa đàn bò ở nước ta, tỷ lệ đàn lợn lai chiếm 70 - 75% tổng đàn lợn cả nước v.v... Các quy trình kỹ thuật thâm canh lúa, màu, rau các loại, cây công nghiệp lâu năm và hàng năm, cây ăn quả v.v... không ngừng hoàn thiện. Công tác khuyến nông được tăng cường đến tận hộ nông dân. Nhờ vậy mà nông nghiệp nước ta đã có bước phát triển mạnh mẽ, tạo ra lượng nông sản hàng hóa lớn đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

Giá trị sản xuất (theo giá 1994) tính cho 1 ha đất nông nghiệp tăng lên nhanh, năm 1990 đạt 8,840 triệu đồng tăng lên 11,186 triệu đồng năm 1995 và lên 11,568 triệu đồng năm 2000. Tương tự tính giá trị sản xuất cho 1 ha gieo trồng, từ 6,383 triệu đồng năm 1990 tăng lên 7,841 triệu đồng năm 1995 và lên 8,669 triệu đồng năm.

Giá trị nông sản xuất khẩu tăng lên nhanh từ 1.745,8 triệu USD năm 1995 tăng lên 2.398,0 triệu USD năm 1997 và 3.394,0 triệu USD năm 1998, tính trên 1 ha đất nông nghiệp năm1995 tạo được 273,27 USD tăng lên 303,19 USD năm 1998, tính trên 1 ha diện tích giao trồng đạt 166,32 USD năm 1995 lên 210,14 USD năm 1997 và lên 289,09 USD năm 1998. Giá trị xuất khẩu nông sản tính cho 1 lao động nông nghiệp năm 1995 đạt 72,62 USD tăng lên 96,21 USD năm 1997 và lên 134,14 USD năm 1998.

Trong những năm đổi mới trình độ thâm canh nông nghiệp của Việt Nam được nâng cao và đem lại hiệu quả to lớn. Nông nghiệp nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, trở thành nước xuất khẩu gạo, cà phê đứng thứ hai trên thế giới, một số nông sản khác cũng có vị thế cao trên thị trường quốc tế, như hạt điều, chè, rau quả, hạt tiêu v.v... góp phần đem lại nguồn ngoại tệ mạnh đáng kể cho đất nước.

Những biện pháp chủ yếu để đẩy mạnh thâm canh nông nghiệp ở nước ta

ở nước ta trong những năm tới phải phục vụ đắc lực cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế do Đại hội Đảng lần thứ IX đã đề ra, đặc biệt là mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, đạt mức tiên tiến trong khu vực về trình độ công nghệ và về thu nhập trên đơn vị diện tích, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm.

Trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước đã chỉ rõ thực hiện thâm canh nông nghiệp nhằm góp phần xây dựng nền nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc, từng bước phân bố lại lao động trong nông nghiệp. Thâm canh phải đi đôi với mở rộng diện tích, nâng cao năng suất, tăng nhanh sản phẩm nông nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu của kinh tế quốc dân, trọng tâm là lương thực và thực phẩm.

Để đẩy mạnh thâm canh nông nghiệp cần chú ý các giải pháp chủ yếu sau:

Rà soát và hoàn thiện quy hoạch các vùng nông nghiệp và chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp hợp lý là điều kiện để thực hiện thâm canh có hiệu quả.

Sản xuất nông nghiệp chịu sự chi phối tương đối lớn của điều kiện tự nhiên và kinh tế. ở mỗi nước, mỗi vùng những điều kiện này không giống nhau, vì thế càn thiết phải rà soát và tiếp tục hoàn thiện quy hoạch các vùng kinh tế nông nghiệp phù hợp với điều kiện tự nhiên và kinh tế trong từng giai đoạn. Vùng nông nghiệp được xây dựng là phương tiện để thực hiện chuyên môn hóa sản xuất một cách khoa học, trên cơ sở đó, mỗi vùng, mỗi xí nghiệp, các trang trại, các hộ nông dân xác định đúng đắn phương hướng sản xuất của mình. Việc hình thành các vùng chuyên môn hóa tập trung hóa sản xuất có cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng là điều kiện tiền đề để thực hiện thâm canh cao và có hiệu quả.

Trên cơ sở xác định đúng đắn phương hướng sản xuất, từng bước xây dựng cơ cấu sản xuất hợp lý. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp hợp lý trước nhất là cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi hợp lý - phản ánh mối quan hệ và phụ thuộc giữa hai ngành chủ yếu của nông nghiệp nhằm đảm bảo cho mỗi ngành và toàn bộ nền nông nghiệp phát triển với nhịp độ cao. Thay đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp gắn liền với việc nâng cao trình độ thâm canh là khuynh hướng tăng tỷ lệ diện tích những cây trồng và tỷ lệ loại gia súc mà từ đó đem lại nhiều sản phẩm hơn trên đơn vị diện tích. Vì vậy chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng hợp lý bà biện pháp thâm canh có hiệu quả. ở nước ta hiện nay việc cải thiện cơ cấu sản xuất nông nghiệp cần thực hiện theo hướng tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi, từng bước bảo đảm sự cân đối giữa hai ngành sản xuất chủ yếu của nông nghiệp phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Trong ngành trồng trọt trên cơ sở tăng nhanh năng suất ruộng đất và năng suất lao động trong khu vực sản xuất lương thực, từng bước tăng tỷ trọng các cây trồng khác, đặc biệt những cây trồng có giá trị kinh tế cao phục vụ xuất khẩu mang lại hiệu quả cao, tăng tỷ trọng sản xuất cây thức ăn cho gia súc.

Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và hệ thống kết cấu hạ tầng cho nông nghiệp để đẩy mạnh thâm canh.

Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật và hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn là cơ sở vật chất của thâm canh, là bảo đảm cho thâm canh có chất lượng mới và nội dung kỹ thuật mới.

Nước ta đi lên theo định hướng XHCN từ nền nông nghiệp sản xuất nhỏ, chưa có nền công nghiệp phát triển, vì vậy cơ sở vật chất - kỹ thuật và hệ thống kết cấu hạ tầng cho nông nghiệp còn hết sức non yếu. Thực hiện thâm canh, từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nông nghiệp là nhiệm vụ hết sức quan trọng. Trước hết là chuyển đổi ruộng đất từng bước xây dựng hệ thống đồng ruộng hợp lý, hoàn chỉnh các hệ thống công trình thuỷ lợi hiện có, quản lý khai thác và sử dụng tốt nguồn nước phục vụ thâm canh, xây dựng hệ thống giao thông nông thôn, giao thông nội đồng và từng bước hoàn thiện hệ thống giống cây trồng và vật nuôi tăng cường sản xuất và chế biến nguồn phân bón hữu cơ, xây dựng cơ sở thức ăn vững chắc cho ngành chăn nuôi...

Trong quá trình thực hiện thâm canh nông nghiệp, vai trò của công nghiệp hết sức to lớn, nhất là ở các nước tiên tiến, công nghiệp đóng góp vai trò quyết định trong việc nâng cao trình độ hiệu quả thâm canh nông nghiệp. ở nước ta, công nghiệp phải vươn lên để trang bị cho nông nghiệp máy móc, thiết bị, công cụ cải tiến, các loại phân bón hóa học, thuốc trừ sâu bệnh, dịch bệnh cho cây trồng và vật nuôi...

áp dụng những thành tựu tiến bộ khoa học - công nghệ mới, những kinh nghiệm tiên tiến của quần chúng trong phong trào thâm canh nông nghiệp.

Việc áp dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp và vận dụng những kinh nghiệm của quần chúng là điều kiện có tính chất quyết định để nâng cao hiệu quả của thâm canh nông nghiệp.

Từ thực tiễn sản xuất nông nghiệp trong nhiều năm qua cho thấy muốn thâm canh có hiệu quả cần chú ý các mặt chủ yếu sau:

- Giải quyết tốt vấn đề phân bón là biện pháp quan trọng của thâm canh nông nghiệp.

Để tăng nhanh năng suất, ngoài các yếu tố chủ yếu như: nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm... phải chú ý cung cấp thêm phân bón cho các loại cây trồng. Việc tăng cường phân bón không những có tác dụng làm tăng năng suất cây trồng, còn có ảnh hưởng đến khả năng của cây trồng trong việc hạn chế tác hại của thiên tai, tăng chất lượng và giá trị của sản phẩm. Nhiều tài liệu nghiên cứu khoa học trên thế giới cũng như trong nước đều chứng minh vai trò to lớn của phân bón đối với năng suất cây trồng. Vì thế trong quá trình thâm canh cần bảo đảm đủ số lượng, chất lượng cao và cơ cấu phân bón hợp lý bao gồm cả phân hữu cơ và phân vô cơ. Đồng thời phải thực hiện chế độ bón phân có căn cứ khoa học phù hợp với từng loại đất và từng giai đoạn phát triển của cây trồng.

- Nâng cao chất lượng giống cây trồng và vật nuôi.

Việc tạo ra và đưa vào sử dụng các giống mới có năng suất cao đang trở thành một trong những nội dung quan trọng của cách mạng khoa học - công nghệ trong nông nghiệp của thế giới. Trong những năm gần đây những thành tựu to lớn đã đạt được về việc tạo ra những giống mới và đưa vào sản xuất đại trà đã thu được nhiều kết quả tốt, tuy nhiên đến nay vẫn chưa đảm bảo đủ số lượng và chất lượng giống tốt cho nông nghiệp. Cần xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống giống từ địa phương đến Trung ương. Tranh thủ nhập những giống tốt của thế giới có khả năng phát triển và cho năng suất cao ở nước ta, đồng thời trên cơ sở chọn lọc và bình tuyển các giống địa phương, tiến hành lai tạo các giống cây trồng và gia súc thích hợp với điều kiện tự nhiên và kinh tế nước ta cho năng suất cao.

- Thực hiện gieo trồng đúng thời vụ.

Cây trồng phát triển theo quy luật tự nhiên nghĩa là nó chỉ có thể sinh trưởng phát triển và phát dục trong những điều kiện thích hợp - điều kiện ôn độ, độ ẩm, lượng ánh sáng ở những thời vụ nhất định. Thực hiện gieo trồng đúng thời vụ chính là tạo ra cho cây trồng được sinh trưởng, phát triển và phát dục trong điều kiện thích hợp nhất và hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng xấu của thời tiết, nhờ vậy nó tạo điều kiện cho phát triển ra hoa, kết quả tốt nhất và đạt năng suất cao. Việc thực hiện gieo trồng đúng thời vụ cũng chính là phương thức tận dụng tối đa tặng vật của tự nhiên mà không phải bỏ chi phí để đầu tư, cây trồng phát triển thuận lợi, năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt, chi phí thấp.

- Phòng trừ sâu bệnh và dịch bệnh

Điều kiện khí hậu và thời tiết ở nước ta rất thuận lợi cho việc trồng trọt và chăn nuôi, nhưng đồng thời sâu bệnh và dịch bệnh dễ phát sinh, phát triển và lây lan. Sâu bệnh phá hoại gây tổn thất lớn đến thu hoạch mùa màng. Theo tài liệu thống kê của tổ chức nông nghiệp Liên hiệp quốc, hàng năm sản lượng nông nghiệp bị hao hụt 20% do bị sâu bệnh, dịch bệnh phá hoại. Vì vậy công tác bảo vệ cây trồng và gia súc là vấn đề quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp nói chung và thâm canh nông nghiệp nói riêng. Để làm tốt công tác trên cần nắm vững quy luật diễn biến của khí hậu thời tiết và quy luật phát sinh và phát triển của sâu bệnh và dịch bệnh để tìm biện pháp phòng trừ có hiệu quả. Phòng trừ sâu bệnh và dịch bệnh phải kết hợp hợp lý biện pháp hóa học, sinh vật học và các biện pháp kỹ thuật trong trồng trọt và chăn nuôi.

- Thực hiện phương pháp sản xuất tiên tiến để nâng cao hiệu quả của thâm canh.

Tất cả những biện pháp trên khi tiến hành sản xuất phải xây dựng thành quy trình sản xuất cho từng loại cây trồng và con gia súc phù hợp với điều kiện tự nhiên và kinh tế cụ thể từng địa phương nhằm phát huy tác dụng tối đa những yếu tố tự nhiên và cơ sở vật chất sẵn có để thâm canh có hiệu quả.

Trong quá trình áp dụng những thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến vào thâm canh, cần kết hợp chặt chẽ giữa thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến với những kinh nghiệm và sáng kiến của quần chúng vào sản xuất.

Phát triển các hình thức kinh tế hợp tác thích hợp là điều kiện quan trọng để thực hiện thâm canh nông nghiệp có hiệu quả.

Trong điều kiện cơ sở vật chất - kỹ thuật và hệ thống kết cấu hạ tầng trong nông nghiệp còn yếu, nếu chỉ dựa vào bản thân từng doanh nghiệp, từng trang trại, hộ nông dân để thực hiện thâm canh sẽ gặp những khó khăn nhất định. Trong lúc đó trang bị kỹ thuật và kết cấu hạ tầng của các doanh nghiệp quốc doanh nông nghiệp thuộc Trung ương, địa phương và các huyện quản lý, của từng trang trại, hộ nông dân, các xí nghiệp chế biến nông sản... có những mặt mạnh, mặt yếu khác nhau. Nếu biết tổ chức liên kết lại với nhau để phát huy thế mạnh, khắc phục những mặt yếu, bổ sung lẫn nhau thì cũng tạo nên những khả năng to lớn để thực hiện thâm canh có hiệu quả. Sự liên kết kinh tế không chỉ đóng khung giữa các đơn vị sản xuất với nhau mà còn được mở rộng ra giữa sản xuất, phân phối, lưu thông. Các trang trại, hộ nông dân, tập đoàn sản xuất liên kết với các hợp tác xã như HTX tiêu thụ, HTX dịch vụ kỹ thuật, quỹ tín dụng nhân dân v.v... tạo điều kiện để các đơn vị sản xuất tích tụ vốn mở rộng sản xuất, tăng cường đầu tư cho thâm canh nông nghiệp.

Hoàn thiện các hoạt động quản lý vĩ mô đối với nông nghiệp.

là vấn đề phức tạp đòi hỏi phải không ngừng cải tiến công tác lãnh đạo và chỉ đạo trong quá trình thực hiện, trước hết là cán bộ trực tiếp lãnh đạo, phải không ngừng nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật và quản lý kinh tế, phải nhạy bén giải quyết tốt các vấn đề mới nảy sinh trong nông nghiệp và trong quá trình thực hiện thâm canh. Đồng thời cán bộ lãnh đạo phải không ngừng nâng cao phương pháp công tác và vận động quần chúng, phát huy quyền làm chủ và tính sáng tạo của quần chúng trong sản xuất, trên cơ sở đó mới giải quyết đúng đắn các mối quan hệ trong công tác lãnh đạo sản xuất, lãnh đạo và chỉ đạo thâm canh nông nghiệp.

Ngoài ra việc không ngừng hoàn thiện các chính sách kinh tế của Nhà nước đối với sản xuất nông nghiệp cũng là một biện pháp rất quan trọng để đẩy mạnh thâm canh nông nghiệp ở nước ta cần phải được quan tâm đúng mức.

Trong quá trình thực hiện thâm canh cần phải giải quyết tốt các mối quan hệ giữa các giải pháp nêu trên, phù hợp với điều kiện tự nhiên và kinh tế của từng vùng, từng địa phương, từng cơ sở sản xuất nông nghiệp.

Tóm tắt chương

là quá trình kinh tế đa dạng và phức tạp, đặc biệt trong điều kiện sản xuất hiện đại, khi cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra một cách mạnh mẽ trên phạm vi rộng lớn.

Các nhà kinh điển của nông nghiệp tư bản chủ nghĩa đã xuất phát từ quan điểm kinh tế rằng, quá trình thâm canh là sự tập trung tư bản trên một đơn vị diện tích, nhấn mạnh mối quan hệ hữu cơ giữa thâm canh nông nghiệp với phát triển lực lượng sản xuất và áp dụng những tiến bộ khoa học - công nghệ trong nông nghiệp, mối liên hệ và phụ thuộc giữa đầu tư với kết quả của chúng, được phản ánh trong việc tăng khối lượng sản phẩm trên đơn v

0