24/05/2018, 19:09

Sự phân tích của Lênin về những mâu thuẫn kinh tế và chính trị

Phân tích nguyên nhân của cuộc khủng khoảng năm 1921 ở nước Nga Lênin cho rằng nguyên nhân trực tiếp là do đời sống kinh tế của người lao động xấu đi, đặc biệt là họ đã phải đau đớn chấp nhận tình hình xấu đi đó sau khi họ đã dự định cải thiện tình cảnh ...

Phân tích nguyên nhân của cuộc khủng khoảng năm 1921 ở nước Nga Lênin cho rằng nguyên nhân trực tiếp là do đời sống kinh tế của người lao động xấu đi, đặc biệt là họ đã phải đau đớn chấp nhận tình hình xấu đi đó sau khi họ đã dự định cải thiện tình cảnh chung ở trong nước và đã thấy được sự cải thiện đó. Viêc chỉ rõ mối quan hệ lẫn nhau: sự cải thiện gay niềm hi vọng, sự xấu đi đột ngột - sự bất mãn sâu sắc và khủng hoảng là những quan sát hết sức tinh tế của Lênin. Lênin còn nhìn thấy ở nền kinh tế cả những nguyên nhân sâu xa hơn của cuộc khủng hoảng. Đó là những biểu hiện về mặt chính trị của sự thiếu tổ chức và không phù hợp về mặt kinh tế.

Thứ nhất: Mâu thuẫn khách quan trong sự ra đời của CNXH ở nước Nga. Điều kiện lịch sử cụ thể của nước Nga trong đó CNXH hiện thưc ra đời lại không như học thuyết Các Mác đã phân tích về mặt lý luận. Đặc điểm của nước Nga là sự lạc hậu tương đối về kinh tế, là sự quyện chặt giữa tư bản độc quyền hiện đại với tàn tích phong kiến. Quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa chủ yếu tồn tại trong nông thôn(dân số nông thôn chiếm 82,4% dân số, kinh tế nông nghiệp chiếm 51,4% thu nhập quốc dân). Đặc điểm này được Lênin rất chú ý phân tích khi người vạch ra chiến lược tình thế giải quyết khủng hoảng và chiến lược lâu dài xây dựng CNXH. Đặt đúng vị trí của vấn đề nông dân và nông nghiệp trong chiến lược và sách lược của Đảng có ý nghĩa quyết định đến bảo vệ những thành quả Cách mạng và xây dựng CNXH.

Trước đây, chính quyền Xô Viết đứng vững được trong nội chiến và sự can thiệp của nước ngoài là nhờ tinh thần hi sinh của nhân dân trước hết là giai cấp công nhân và giai cấp công nhâ. Nhiệt tình cách mạng là động lực duy nhất trong chiến đấu và chiến thắng.

Sau chiến tranh, giai cấp công nhân vẫn là người chủ yếu nuôi sống đất nước, đời sống của họ lại đang thiếu thốn khó khăn. Nếu Đảng giữ được nhiệt tình cách mạng và lòng tin của họ thì bảo vệ được cách mạng. Ngược lại, nếu làm mất lòng tin của họ thì sự nghiệp sẽ hết sức nguy hiểm. Giữ vững lòng tin lúc này có ý nghĩa là phải tìm ra động lực của thời kì xây dựng. Xuất phát từ sự phân tích đó, Lênin đã chỉ ra rằng: phải bắt đầu từ nông dân và nông nghiệp, phải cải thiện đời sống người lao động trên cơ sở xây dựng quan hệ kinh tế bình thường giữa nông nghiệp với công nghiệp, củng cố liên minh công nông trên cơ sở kinh tế nhằm lôi cuốn những người sản xuất nhỏ vào việc xây dựng đất nước và đi lên CNXH. Chỉ có một chính sách như vậy mới tạo được tiền đề cho sự nghiệp công nghiệp hoá XHCN.

Tư tưởng đó của Lênin đóng vai trò quyết định trong việc đưa ra lý luận Mac-xit về thời kì quá độ vào thực tiễn cuộc sống và làm phong phú thêm lý luận đó. Nhờ tư tưởng ấy mà Đảng đã sửa chữa được những sai lầm trong thời kì đó.

Thứ hai: những sai lầm chủ quan của những người công sản cũng là một thực tế phải giải quyết đồng thời với việc giải quyết mâu thuẫn khách quan. Trong những năm tháng áp dụng “Chính sách cộng thời chiến” đã hình thành quan niệm về khả năng quá độ trực tiếp lên CNXH. Nhiều chủ trương, biện pháp quá đáng ra đời từ quan niệm này là một trong những nguyên nhân làm tăng nguy cơ khủng hoảng. Mô hình kinh tế xã hội theo quan điểm trực tiếp lên XHCN. Không qua các giai đoạn trung gian, không qua các hình thức quá độ. Mô hình đó không phải dừng lại ở quan niệm mà đã thể hiện trong thực tế sau khi chiến tranh kết thúc “một cuộc thí nghiệm không lâu lắm cho chúng ta thấy rõ rằng cách làm như vậy là sai, là trái với những điều trước kia chúng ta đã viết về bước quá độ từ CNTB lên CNXH ”. Lênin đã chỉ ra vậy.

Quan niệm này không phải chỉ là sản phẩm duy ý chí của người quản lý mà trong đó còn phản ánh nguyện vọng của đông đảo quần chúng lao động muốn nhanh chóng thoát khỏi cảnh nghèo khổ hôm quan. Rõ ràng đây là quan niệm mang tính chất lãng mạn và ảo tưởng nhưng đã lặp đi lặp lại ở nhiều nước kém phát triển XHCN, hay đang ở chặng đầu thời kì quá độ lên CNXH. Vì vậy, ngay từ năm 1921 khi phân tích quan niệm sai lầm về khả năng quá độ trực tiếp lên XHCN, Lênin đã chú ý tới ý kiến của Aghen phân tích kinh nghiệm những năm 1648 và 1789 cho rằng: “hình như có một quy luật đòi hỏi cách mạng phải tiến xa hơn là nó có thể làm được”.

Chính đặc điểm đó của phong trào quần chúng đòi hỏi Đảng lãng đạo có sự phân tích cụ thể trong tình hình cụ thể khi vận dụng lý luận vào thực tiễn. Điều này đã được thực tiễn chứng minh ở hai trường hợp trước và sau khi ban hành chính sách kinh tế mới.

* Trong thời gian thực hiện những chủ trương biện pháp quá đáng (trước khi thực hiện), do không đếm xỉa đến đặc điểm và điều kiện lịch sử cụ thể của công cuộc xây dựng CNXH, do sự chi phối của quan niệm chuyển trực tiếp lên CNXH nên tình trạng khủng hoảng ngày càng trầm trọng: sản xuất sa sút hơn, nhất là nông nghiệp. Dân số ăn theo chế độ cung cấp của Nhà nước tăng nhanh trong khi mức lương thực cung cấp ngày càng ít thấp hơn nhiều so với mức sống cần thiết. Các chỉ tiêu thu mua trưng thu cứ tăng lên, nhưng kết quả cứ giảm xuống, nhu cầu tiền mặt càng tăng, càng phải in và phát hành thêm thì sức mua của đồng tiền càng giảm. Số lượng của giai cấp công nhân đã giảm 1/2, trong đó một bộ phận chuyển về nông thôn. Nông dân ngày càng không bằng lòng với các chính sách của Đảng. Sai lầm trong lĩnh vực hoạt động kinh tế gây ra hậu quả chính trị nặng nề: liên minh công nông đứng trước nguy cơ tan rã, chuyên chính vô sản không được củng cố, vai trò lãnh đạo của Đảng yếu đi. Tình trạng an ninh chính trị và an toàn ngày càng xấu.

Ngược lai, với tình trạng trên đây, tình hình kinh tế và chính trị được cải thiện nhanh chóng sau khi ban hành NEP vào tháng 3/1921. ngay sau đó, vụ thuế lương thực đầu tiên đạt 96% (mặc dù tỉ xuất thu đã được hạ thấp và năm 1921 là năm bị hạn hán và lạn đói hoành hành mạnh nhất). Thắng lợi đầu tiên ấy chứng tỏ NEP là cong đường đi đúng đắn. Còn sau đó, giữa năm 1922 đến năm 1925, nông nghiệp phát triển mạnh, trong đó sản xuất lương thực từ 56,3 triệu tấn tăng lên 74,7 triệu tấn. Nông thôn hoạt động sôi nổi. Nông nghiệp được phục hồi và phát triển kéo theo sự khôi phục công nghiệp và thương nghiệp. Đời sống nhân dân lao động được ổn định trở lại sau một năm thi hành chính sách kinh tế mới, Lênin nói “ Nông dân lấy làm hài lòng với tình trạng của họ hiện nay. Chúng tôi có thể mạnh dạng khẳng định như thế.”

Sau bốn năm rưỡi thi hành chính sách NEP, nước Nga Xô Viếtkhông chỉ khắc phục được hậu quả của chiến tranh và nạn đói mà sản xuất còn vượt mức chiến tranh. “ Từ nước Nga của chính sách kinh tế mới sẽ nảy ra nước Nga XHCN ”.

Tính chất đúng đắn của NEP đã được lịch sử chứng minh. Ngày nay muốn vận dụng NEP và có kết quả cần phải đi sâu vào nội dung cơ bản của NEP.

0