18/06/2018, 11:24

Sự kết thúc của chủ nghĩa tư bản? Mark Twain, Lake Wobegon, cuộc khủng hoảng hiện nay

Mark Blyth Mặc dù từ trước đến nay chúng ta chưa từng phải đối mặt với cuộc khủng hoảng nào giống như hiện nay, song các cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản thì đã từng có tiền lệ. Chúng xảy ra ở mọi nơi. Mark Blyth là Giáo sư về Kinh tế Chính trị Quốc tế tại Trường Đại học Brown. ...


Mark Blyth

Mặc dù từ trước đến nay chúng ta chưa từng phải đối mặt với cuộc khủng hoảng nào giống như hiện nay, song các cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản thì đã từng có tiền lệ. Chúng xảy ra ở mọi nơi.

Mark Blyth là Giáo sư về Kinh tế Chính trị Quốc tế tại Trường Đại học Brown. Ông là tác giả của cuốn Những chuyển đổi vĩ đại: các ý tưởng kinh tế và thay đổi chính trị trong thế kỷ 20.

Nếu bạn phác họa cái mà các nhà thống kê gọi là dữ liệu theo thời gian về tính sinh lời của hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ từ năm 1947 đến năm 2008, bạn có thể thấy được hệ số sinh lời bình quân của khu vực này qua thời gian: đạt mức đỉnh điểm vào những năm 1990 đến giữa những năm 2000, đạt mức thấp trong giai đoạn từ 1947 đến 1967 và tăng trưởng chóng mặt trong 10 năm gần đây. Nếu bạn thêm vào đó các dữ liệu của giai đoạn từ tháng 8/2008 đến tháng 4/2009, thì bạn sẽ thấy trong khoảng toàn bộ khoảng thời gian này hệ thống ngân hàng của Hoa Kỳ đã có sự phát triển đột biến. Các giá trị trung bình, phương sai, và các chỉ số thống kê khác biến đổi bất thường, do những sự biến đổi ghê gớm diễn ra gần đây. Trên thực tế, khi cựu Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ Alan Greenspan thừa nhận rằng ông đã đánh giá sai lầm về các diễn biến thị trường, và sau đó vị Chủ tịch đương nhiệm Ben Bernanke nói rằng chúng ta đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng lớn nhất kể từ cuộc Đại suy thoái, thì chúng ta nên nhìn nhận cuộc khủng hoảng này một cách thực sự nghiêm túc.

Và cuộc khủng hoảng này thực sự nghiêm trọng. Với sự suy giảm vô cùng lớn: 1,3 tỷ đô-la Mỹ trong giá trị tài sản và khoảng 3,6 tỷ đô-la Mỹ trong giá trị nợ, kéo theo đó là sự sụt giảm mất một nửa giá trị của thị trường chứng khoán, khiến hệ thống tài chính Hoa Kỳ lâm vào tình trạng căng thẳng, vỡ nợ, và có thể tồi tệ hơn khi tình trạng này vượt quá mức chịu đựng của hệ thống. Sự kết thúc của chủ nghĩa tư bản đã từng được công bố nhiều lần trước đây. Thế nhưng, xin trích dẫn quan điểm của nhà văn và nhà hài hước người Mỹ Mark Twain là những lời tuyên bố trên về sự tuyệt vong của chủ nghĩa tư bản đã bị cường điệu quá mức.

Chủ nghĩa tư bản Mỹ nổi lên từ cuộc khủng hoảng này sẽ có nhiều điểm khác biệt với chủ nghĩa tư bản được tài chính hóa cao độ, hướng tới tiêu dùng và mất cân bằng cán cân thương mại mà chúng ta đã xây dựng trong hai thập kỷ qua. Nó đã thay đổi đến mức mà Phố Wall theo đúng nghĩa của nó không còn tồn tại nữa. Nhưng điều mà người ta quên là nước Mỹ đã từng lâm vào tình cảnh như vậy trong quá khứ. Mặc dù loại hình khủng hoảng mà chúng ta đang phải đối mặt hiện nay chưa từng xuất hiện từ trước tới nay song các cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản thì đã xảy ra rồi: chúng xuất hiện ở nhiều nơi. Chỉ có điều là cuộc khủng hoảng này đã giáng vào nước Mỹ hơn là vào một khu vực khác trên thế giới. Chúng ta đã từng gặp phải tình trạng tồi tệ như vậy, và chúng ta đã sống sót, chủ yếu là vì hoàn cảnh hiện tại khác với quá khứ. Việc nhớ lại điều này khiến chúng ta băn khoăn liệu chủ nghĩa tư bản Mỹ có vận hành đúng quỹ đạo hay không.

Bài toán Lake Wobegon (trong đó tất cả mọi người đều ở trên mức trung bình)

Mặc dù ta có thể đổ lỗi cho nhiều nguyên nhân gây ra khủng hoảng – từ văn hóa thưởng điểm của ngân hàng, đến chuyện Trung Quốc có mức tiết kiệm cao, đến chuyện những người Đức keo kiệt – nhưng việc chỉ tập trung vào phân tích thời điểm hiện tại sẽ khiến chúng ta không thấy được một loạt các nguyên nhân sâu xa đằng sau cuộc khủng hoảng. Việc nhìn nhận cuộc khủng hoảng này một cách toàn diện và phù hợp đòi hỏi chúng ta phải nhìn về 30 năm trước – thời điểm có sự kết hợp không mong muốn giữa một bên là vốn khả dụng không hạn chế với bên kia là các nhóm tài sản có giới hạn. Có sáu xu hướng đồng thời diễn ra khiến chúng ta lâm vào tình cảnh hiện nay.

Thứ nhất, vào đầu những năm 1980, các trung tâm tài chính lớn trên thế giới bắt đầu phi điều tiết thị trường tín dụng trong nước của mình và tự do hóa các tài khoản tài chính. Xu thế “toàn cầu hóa tài chính” đã khiến cho số vốn khả dụng trên thị trường tăng cao một cách ngoạn mục do các thị trường bị cô lập trước đây trở nên mở cửa và phụ thuộc lẫn nhau.

Thứ hai, số vốn khả dụng nói trên lại càng tăng cao hơn với sự ra đời của các công cụ tài chính mới, đặc biệt là các kỹ thuật chứng khoán hóa và tăng cường sử dụng các sản phẩm tín dụng phái sinh.

Thứ ba, với tốc độ tăng trưởng nhanh chóng của vốn khả dụng toàn cầu, lãi suất ngắn và dài hạn bắt đầu suy giảm chóng mặt. Vào năm 1991, lãi suất cơ bản và lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (kéo theo đó là lãi suất toàn cầu) đã bắt đầu đà cắt giảm liên tục, từ mức hai con số xuống những mức thấp nhất trong lịch sử.

Thứ tư, trước những thay đổi này, khu vực ngân hàng thương mại của các nền kinh tế hiện đã trở thành các nền kinh tế tài chính bỗng trở nên ngày càng tập trung. Khả năng tín dụng của ngân hàng cũng tăng lên nhanh chóng cùng với quá trình tư nhân hóa các nghĩa vụ nợ trước kia thuộc nhà nước, đặc biệt là trong lương hưu, từ đó thúc đẩy sự lớn mạnh của một số lượng lớn các nhà đầu tư thể chế phi ngân hàng, tất cả đều tìm cách đạt lợi nhuận trên mức trung bình, vì nhiệm vụ của họ là phải hoạt động tốt hơn một mức chuẩn nào đó, thường là mức lợi nhuận hàng năm theo chỉ số chứng khoán S&P 500, hay chỉ số lợi nhuận của ngành.

Thứ năm, mức thâm hụt tài khoản vãng lai của Hoa Kỳ ngày càng trầm trọng và chiếm tỷ trọng GDP lớn nhất trong lịch sử. Nước Mỹ đã vay nợ từ 3 đến 6% GDP mỗi năm từ hơn 20 năm nay, và việc vay nợ với lãi suất thấp làm cho người ta có cảm giác rằng tiền là miễn phí, với tốc độ tăng trưởng cao mà chúng ta đã quen được hưởng bấy lâu nay.

Thứ sáu, và có thể chính là nguyên nhân tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả những điều trên, là sự thay đổi ngấm ngầm và sâu sắc về ý thức hệ đã diễn ra tại Mỹ từ năm 1970 đến năm 2000. Có thể nói các thị trường bắt đầu được các chính trị gia, các nhà phê bình và công chúng nhìn nhận là các thị trường tự điều tiết, có thể tạo ra mức lợi nhuận cao hơn nữa mà không gặp rủi ro, chỉ cần nhà nước không điều tiết. Và sự thực đã diễn ra đúng như vậy, theo lời kêu gọi của chính trị gia ở cả hai đảng. Và tất cả những điều này xảy ra cùng một lúc đã làm cho hệ thống tài chính trở nên phụ thuộc vào việc liên tục tìm kiếm mức lợi nhuận trên mức trung bình và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong GDP của Hoa Kỳ.

Những hạn chế của Lake Wobegon

Điều không ổn khi tìm cách đạt lợi nhuận trên mức trung bình là ở chỗ nó liên tục làm cho giá cả tăng mà không giảm. Ở đây chúng ta gặp phải vấn đề về xếp loại tài sản: số loại tài sản tốt là có hạn, tức là những loại tài sản mà từ đó các nhà đầu tư có thể đạt lợi nhuận trên mức trung bình. Chỉ có một vài loại tài sản như: cổ phần (thị trường cổ phiếu), tiền mặt (thị trường tiền tệ) và thu nhập cố định (thị trường trái phiếu); ngoài ra còn có thể thêm bất động sản và hàng nguyên liệu. Nếu cổ phần, trái phiếu và các công cụ thị trường tiền tệ được coi là hình thức đầu tư tương ứng trong cùng một loại tài sản, thì thị trường chứng khoán – vốn được định giá thấp từ đầu những năm 1990 – trở thành nơi lý tưởng để tìm kiếm lợi nhuận trên mức bình quân. Một lượng tiền mặt khổng lồ nhằm tìm kiếm lợi nhuận trên mức bình quân đã đổ vào thị trường chứng khoán Hoa Kỳ và sau đó đã nhanh chóng tiếp sức cho thị trường chứng khoán toàn cầu vào giữa và cuối những năm 1990.

Khi mà bong bóng này nổ tung, đặc biệt là tại các nước Đông Á, cả trái phiếu lẫn thu nhập cố định đều không thể mang lại mức lợi nhuận trên bình quân mà những thị trường này – và tất cả chúng ta, những người phụ thuộc vào các thị trường đó – mong đợi. Thế là các nhà đầu tư quay ra đầu tư vào ngành công nghệ thông tin, và bong bong trong ngành này lại vỡ, và sau đó quay ra đầu tư vào một loại tài sản có vẻ “ăn chắc” nhất là bất động sản. Điều này đã dẫn đến cơn sốt thị trường nhà đất ngay sau khi bong bong công nghệ thông tin bị vỡ vào cuối những năm 1990. Đến năm 2008 thì bong bóng nhà đất này đã hết người đi vay (đáng tin cậy), một phần do Chủ tich Cục Dự trữ Liên bang Greenspan đã có quyết định tăng lãi suất vào giữa những năm 2000. Hậu quả của việc tìm kiếm lợi nhuận mới là các loại tài sản và hàng nguyên liệu còn lại đã làm xuất hiện một bong bóng tiếp theo, cùng với đó là việc giá dầu thô tăng gấp bốn lần và giá thực phẩm tăng từ 40 đến 70% chỉ trong vòng hơn một năm. Tuy nhiên, ngoại trừ dầu, các thị trường còn lại đều là thị trường nhỏ, quá nhỏ để duy trì một lượng tiền mặt lớn như vậy, thế là những bong bóng này nhanh chóng nổ tung. Chính sự đổ vỡ của thị trường hàng nguyên liệu cùng với những tổn thất nặng nề của thị trường cho vay mua nhà thế chấp dưới chuẩn đã tạo ra cuộc khủng hoảng hiện nay.

Mặc dù có thể gọi đây là “cuộc khủng hoảng của các khoản cho vay mua nhà thế chấp dưới chuẩn”, song có thể sẽ tốt hơn nếu coi đây là một cuộc khủng hoảng mang tính hệ thống, khi mà tất cả các nhân tố cùng xảy ra một lúc thông qua các thực tiễn quản lý rủi ro trong lĩnh vực tài chính. Mặc dù các ngân hàng và các công ty tài chính khác đều có các mô hình quản lý nhiều loại hình rủi ro khác nhau (rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản và các rủi ro khác), song những công nghệ giống hệt nhau này có thể tạo ra những yếu tố bất ổn trên thị trường do chúng ngăn không cho người sử dụng đo lường được rủi ro, từ đó khiến rủi ro bị tập trung vào các danh mục giống nhau do mọi người đều quản lý rủi ro theo một cách như nhau, hoặc thông qua việc kết nối các loại tài sản để có mức độ thanh khoản cần thiết khi vị thế đầu tư của ngân hang dần lộ rõ và khi họ cắt giảm việc đi vay. Như vậy, điều tỏ ra là hợp lý đối với một ngân hàng lại có thể tạo ra những rủi ro mang tính hệ thống cho tất cả các ngân hàng vì cơ cấu tài sản trở nên tương quan từng kỳ với nhau xét cả về xu hướng tích cực cũng như tiêu cực của bong bóng.

Khi mà toàn bộ hệ thống ngân hàng đã tràn ngập các sản phẩm cho vay mua nhà thế chấp và các sản phẩm hoán đổi vỡ nợ tín dụng, thì khủng hoảng là tất yếu, vấn đề chỉ là lúc nào nó nổ ra mà thôi. Khủng hoảng đã xuất hiện khi nhiều ngân hàng lớn ở Mỹ thua lỗ tới mức phá sản như Lehman Brothers, từ đó gây ra tình trạng thua lỗ có hệ thống giữa các thị trường có liên quan, đặc biệt là tình trạng vỡ nợ tín dụng diễn ra hàng loạt trên các thị trường. Vốn khả dụng trở nên cạn kiệt, và cuộc khủng hoảng bắt đầu. Việc cuộc khủng hoảng này sẽ tiếp tục diễn biến ra sao còn tùy thuộc vào phán đoán của từng người, nhưng liệu đây có phải là dấu hiệu cho sự kết thúc của chủ nghĩa tư bản Mỹ hay không? Có nhiều lý do để cho rằng không phải như vậy, và nhận định của Mark Twain dường như vẫn đứng vững.

Mark Twain và ba lý do để hy vọng

Cần phải lưu ý rằng mặc dù Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Bernanke đã nói rằng chúng ta đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất kể từ cuộc Đại suy thoái, song ông cũng không hề nói rằng chúng ta đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng có quy mô lớn như thời kỳ Đại suy thoái. Tỷ lệ thất nghiệp từ 20 đến 40%, thương mại quốc tế sụp đổ, phá giá đồng tiền để tăng sức cạnh tranh, các mức thuế cao đến kỳ cục, và sự đổ vỡ của chế độ dân chủ là bức tranh hiện thực về thời kỳ Đại suy thoái trên khắp thế giới. Chúng ta hiện đang phải đối mặt với một thời kỳ khó khăn đầy thách thức của cuộc khủng hoảng ngày nay và rất có thể cuộc khủng hoảng này sẽ còn trở nên trầm trọng hơn, song những gì đang diễn ra còn thua xa mức trầm trọng của cuộc Đại suy thoái. Điều này cho tôi lý do để lạc quan tin tưởng vào luận điểm của Twain, một phần quan trọng là vì thế giới mà ta đang sống ngày nay khác xa với thế giới của những năm 1930. Mũi tên thời gian chỉ ra rằng chúng ta luôn “sống và tiến lên phía trước”, những điều kiện hiện thời không thể giống hoàn toàn với những gì đã xảy ra trong quá khứ. Có ba nhân tố khác biệt giữa bối cảnh hiện thời với bối cảnh của những năm 1930 giúp chúng ta có cơ hội tránh được những sai lầm đã mắc phải trong quá khứ.

Bài học đầu tiên rút ra là chúng ta có thể rút kinh nghiệm từ quá khứ. Chúng ta có thể sẽ không lặp lại kịch bản những năm 1930 vì chúng ta có thể nhớ lại những năm 1930 tồi tệ như thế nào, và việc hành động một cách cá nhân đã khiến tất cả chúng ta đều chịu thiệt ra sao. Những bài học rút ra khiến các quốc gia trên thế giới phải xây dựng một cách có trật tự các hệ thống cân bằng tự động trong nền kinh tế của họ, nhằm tránh sụt giảm tiêu dùng, có thể dẫn tới chủ nghĩa bảo hộ và nhu cầu quốc hữu hóa trong trường hợp khủng hoảng bên ngoài nổ ra; đồng thời đòi hỏi các quốc gia phải biết dựa vào sự hợp tác đa phương để chặn đứng các sai lệch về chính sách. Ai đó có thể biện hộ một cách hợp pháp rằng những quốc gia khác nhau học được những bài học khác nhau. Người Đức thường lo lắng về hậu quả lạm phát của tiêu dùng, người Mỹ muốn người châu Âu hành động chống lại nạn thất nghiệp khiến người Mỹ e sợ. Nhưng điểm gặp gỡ như G20 lại là để bộc lộ những khác biệt này và tìm cách có được những thỏa thuận chính sách. Vấn đề là ở chỗ cần phải có sự cân bằng giữa điều tiết và khuyến khích; cả Mỹ và Tây Âu đều biết rằng họ cần tìm thấy nền tảng chung để cùng nhau tiến lên.

Lý do thứ hai khiến tôi lạc quan là một sự hủy hoại hỗ tương (MAD - mutually/monetarily assured destruction) mới. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, chúng ta đã nói về “sự chắc chăn hủy diệt lẫn nhau” – trong đó nước Mỹ và Liên bang Xô viết có quá nhiều tên lửa hạt nhân khiến một bên không thể phá hủy bên còn lại mà không tự hủy diệt mình. Với sự tùy thuộc lẫn nhau trong hệ thống tiền tệ thì chúng ta có một MAD mới – “sự chắc chắn phá hủy tiền tệ” – đang tồn tại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Một hậu quả của quá trình tài chính hóa nền kinh tế Mỹ là chúng ta đang khiến Trung Quốc đổi hàng hóa thực lấy ngoại hối, và đạt được mức lợi nhuận đáng kinh ngạc từ việc tích lũy dự trữ ngoại hối từ hơn 20 năm nay, trong khi đó, nền kinh tế Trung Quốc và của các nước Đông Á khác đã đạt một lượng thặng dư mậu dịch và thặng dư tài khoản vãng lai lớn một cách đáng kinh ngạc. Về bản chất, nước Mỹ đã thực hiện một cuộc cá cược một chiều, trong đó, chúng ta vận hành nền kinh tế tài chính theo sự phân công lao động toàn cầu – Trung Quốc sản xuất hàng hóa, đem xuất khẩu để đổi lấy đồng đô-la Mỹ, số tiền này lại được dùng để cho người Mỹ vay, tức là chúng ta vay tiền của họ để tiêu dùng hàng hóa của họ. Hệ thống này cũng đã đến hồi kết. Trung Quốc cần tiêu dùng nhiều hơn, và nước Mỹ cần sản xuất cái gì đó ngoài các sản phẩm phái sinh cầm cố, cả hai nước đều biết rõ điều đó. Đạt được điều này đồng nghĩa với việc nhiều tổn thất sẽ xảy ra, nhưng sự hủy diệt lẫn nhau về tiền tệ – trong đó đồng đô-la Mỹ bị phá giá, tỷ giá hối đoái sụt giảm – cũng là một chính sách có thể mang lại hậu quả thảm khốc mà cả Mỹ và Trung Quốc biết rõ là cần phải tránh tại thời điểm này.

Thứ ba, một tư tưởng khác cũng đã thất bại. Trước đây người ra tin rằng bàn tay vô hình của thị trường là tốt và có khả năng tự điều tiết, còn sự can thiệp của nhà nước là xấu vì luôn điều tiết một cách quá mức. Giờ đây niềm tin này lại xuất hiện như một cơn ác mộng cứ lặp đi lặp lại trong lịch sử chủ nghĩa tư bản. Những năm 1930 đã dạy cho chúng ta bài học rằng quan điểm nói trên về thị trường và sự tự điều tiết là một niềm tin lệch lạc, và đã dẫn chúng ta tới kỷ nguyên của Keynes với nền tài chính được điều tiết tốt đồng hành với các quốc gia thịnh vượng. Những năm 1970, một thời kỳ khủng hoảng khác trong thế kỷ 20, lại chứng minh cho chúng ta thấy rằng Keynes đã nhầm, rằng chính các thị trường mở và nền tài chính phi điều tiết mới là con đường cần phải đi. Hệ thống tài chính hiện nay, có thể được gọi là hệ thống toàn cầu hóa theo chủ nghĩa tự do mới, là một hệ thống vừa mới được xây dựng. Vậy đâu là bài học mà chúng ta rút ra được tại thời điểm này?

Bài học mà chúng ta cần phải học hỏi nhất từ cuộc khủng hoảng này là các thị trường và các nhà nước ở khắp mọi nơi luôn có quan hệ chồng chéo, có tính tùy thuộc về cơ cấu, có quan hệ vừa đối kháng vừa tương hỗ. Chủ nghĩa tư bản chỉ thịnh vượng nhất trong một môi trường được điều tiết thận trọng bởi nhà nước, và chủ nghĩa tư bản Mỹ cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Sự cân bằng chính xác giữa vai trò của thị trường và vai trò của nhà nước là một câu hỏi chính trị mà mỗi quốc gia sẽ có câu trả lời khác nhau. Nhưng các nước (kể cả Mỹ) giờ đây đều thừa nhận rằng cần phải có sự kết hợp của cả hai yếu tố này.

Như vậy, quan điểm của Mark Twain vẫn khẳng định được chỗ đứng của nó. Tuyên bố về sự tuyệt vong của chủ nghĩa tư bản Mỹ tỏ ra quá cường điệu và chỉ có thể tồn tại chừng nào chúng ta không chịu công nhận rằng những bài học từ quá khứ quả là những bài học cần phải được chiêm nghiệm.

Quan điểm trình bày trong bài báo này không nhất thiết phản ánh quan điểm hay chính sách của Chính phủ Hoa Kỳ.

0