Soạn văn bài: Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra
Đánh giá bài viết Soạn văn bài: Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra Đọc hiểu văn bản Câu 1: Thể loại của bài thơ giống bài "Nam quốc sơn hà" của Lí Thường Kiệt. Thể loại bài thơ: thất ngôn tứ tuyệt. Số dòng: 4 dòng. Số tiếng: 7 tiếng ở mỗi dòng thơ. Hiệp vần: ... Đọc ...
Đánh giá bài viết Soạn văn bài: Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra Đọc hiểu văn bản Câu 1: Thể loại của bài thơ giống bài "Nam quốc sơn hà" của Lí Thường Kiệt. Thể loại bài thơ: thất ngôn tứ tuyệt. Số dòng: 4 dòng. Số tiếng: 7 tiếng ở mỗi dòng thơ. Hiệp vần: ...
Đọc hiểu văn bản
Câu 1:
Thể loại của bài thơ giống bài "Nam quốc sơn hà" của Lí Thường Kiệt.
-
Thể loại bài thơ: thất ngôn tứ tuyệt.
-
Số dòng: 4 dòng.
-
Số tiếng: 7 tiếng ở mỗi dòng thơ.
-
Hiệp vần: 1 – 2 – 4: yên – biên – điền.
Câu 2:
Cụm từ bán vô bán hữu (nửa như có nửa như không) có nghĩa là phong cảnh mờ ảo; vừa như có lại như không; vừa thực lại vừa hư. Quang cảnh gợi lên ở đây là làng xóm đang mờ trong sương khói. Cảnh có nét thực nhưng lại có nét ảo. Chính điều này tạo nên sự mơ màng, nên thơ rất độc đáo của câu thơ.
Câu 3:
Trong bài thơ, cảnh được miêu tả vào lúc chiều tà (lúc hoàng hôn). Trong khung cảnh có thể nghe thấy tiếng sáo của trẻ chăn trâu đang dẫn những chú trâu no mẫm về nhà, có những cánh cò trắng đang từ từ đáp xuống cánh đồng phía trước, ở phía xa kia, các thôn xóm đã chìm dần trong sương khói như mơ như thực. Một khung cảnh làng quê thật thanh bình và êm ả, nên thơ.
Câu 4:
-
Cảm nhận về cảnh: Cảnh giản đơn đạm bạc, quê mùa mà sức chứa đựng lớn lao kì vĩ. Không núi cao sông rộng, không thời gian nghìn năm mây trắng còn bay. Không không gian vạn lí thiên, chỉ một khoảnh khắc chiều tà, một góc xóm nhà dân giữa dăm vạt ruộng nương vậy mà âm vang cả non sông đất nước.
-
Tâm trạng của tác giả: Ta hình dung tác giả như đang đắm chìm mơ màng trong không gian buổi chiều tà dung dị quyến rũ ấy. Trong lòng trào dâng một tình yêu tha thiết đối với xóm làng quê hương đất nước thân thương.
Câu 5:
Tác giả của bài thơ là một ông vua có tâm hồn thi sĩ. Đọc bài thơ, ta thấy hoàn toàn không có sự ngăn cách nào giữa một người lãnh đạo cao nhất của một quốc gia với một người nông dân thuần phác (cảnh được nhìn và miêu tả ở những nét gần gũi và dân dã nhất). Điều đó cho thấy, nhà vua rất gần dân chúng, rất yêu dân, yêu chuộng sự thanh bình. Phải chăng vì các vị vua Trần rất thân dân, yêu dân như con mà mỗi khi đứng trước hoạ xâm lăng (nhất là trong ba lần quân Nguyên – Mông xâm lược nước ta) nhà Trần đều lãnh đạo nhân dân chống xâm lược thành công.