25/04/2018, 22:14

Soạn bài Tương tư, trang 49 Văn 11 – Văn lớp 11...

Đọc thêm: Tương Tư – Nguyễn Bính – Soạn bài Tương tư, trang 49 SGK Văn 11. Nỗi nhớ da diết của nhân vật trữ tình trải suốt bài thơ nhưng đến tận cuối bài nỗi nhớ mong ấy vẫn chưa được đền đáp. GỢI Ý LÀM BÀI 1. Câu 1 trang 50 SGK Con người lãng mạn trong bài Tương tư đã thao thức ...

Đọc thêm: Tương Tư – Nguyễn Bính – Soạn bài Tương tư, trang 49 SGK Văn 11. Nỗi nhớ da diết của nhân vật trữ tình trải suốt bài thơ nhưng đến tận cuối bài nỗi nhớ mong ấy vẫn chưa được đền đáp.

GỢI Ý LÀM BÀI

1. Câu 1 trang 50 SGK

Con người lãng mạn trong bài Tương tư đã thao thức “chín nhớ mười mong” người thương ròng rã suốt “mấy đêm rồi”, mong nhớ hết ngày này đến ngày khác, thậm chí hết tháng này qua tháng khác: “Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”… Theo đạo lí quân tử “tu, tề, trị, bình” Nho gia, nhất là Tống Nho, thì kẻ nam nhi như thế là hỏng quá… Nhưng sức cuốn hút của thơ tình Nguyễn Bính chủ yếu không phải do thái độ thành thực giãi bày nỗi niềm “chín nhớ mười mong” hay do sự cãi lí cho tính phủ hợp quy luật của tình yêu nam nữ, đặng biện hộ cho đạo lí nhân văn (không ít nhà thơ lãng mạn đương thời bộc lộ tình cảm yêu đương nhiều khi còn đắm đuối hơn (Ao ước – Tế Hanh), tinh tế hơn (Ngậm ngùi – Huy Cận) hoặc não lòng hơn: “Chúng tôi lặng lẽ bước trong thơ – Lạc giữa niềm êm chảng bến bờ – Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá – Hai người nhưng chảng bớt bơ vơ” (Trăng – Xuân Diệu)…), mà sức cuốn hút ấy chủ yếu là bởi những rung động của trái tim thi sĩ (thê hiện trong cấu tứ cũng như ở giọng điệu) dung hợp rất nhuần nhuyễn tính cách dân tộc.

‘ Nỗi nhớ da diết của nhân vật trữ tình trải suốt bài thơ nhưng đến tận cuối bài nỗi nhớ mong ấy vẫn chưa được đền đáp. Chính bởi thế mà nó đã tạo được ra cái cớ để cho dòng tâm trạng của nhân vật trữ tinh được bộc lộ một cách tha thiết và sâu sắc.

2. Câu 2 trang 50 SGK Văn 11

Nét chủ yếu của tính cách dân tộc trong bài Tương tư chính là khuynh hướng cấu tứ khái quát mang ý nehĩa về độ: “chín nhớ mười mong” dài theo ngày tháng, dẫu biệt vô âm tín vẫn tiếp tục đợi chờ: “Bao giờ bến mới gặp đò”, với niềm hi vọng xa vời. “Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”..; và chỉ đến mức ấy thôi, chứ không phải kiểu phản ứng quyết liột. “Rồi anh chết, anh chết sầu chết héo – Linh hồn anh thất thểu dõi hồn em… ” như chàng lãng mạn trong bài Ao ước của Tế Hanh – ý tứ cực đoan này phải chăng chỉ phù hợp với tâm lí một số độc giả thành thị. Phong cách cấu tứ thơ tình yêu với các mức độ tình cảm phù hợp dân tộc tính như vậy đã xuất hiện trong hầu hết những bài thơ khác của Nguyễn Bính. Những nhân vật trữ tình trong thơ Nguyễn Bính (người thật việc thật hoặc hư cấu, khách thể hoặc chủ thể) dẫu có lâm vào trạng huống yêu đơn phương, tình tuyệt vọng… đều ứng xử có chừng mực: một chàng trai bị người yêu thờ ơ, chỉ than thở: “Tinh tôi mở giữa mùa thu – Tinh em lẳng lặng kín như buồng tằm” (Đêm cuối cùng); một cô gái bị lỗi hẹn cũng nhẫn nại đợi chờ: “Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày – Bao giờ em mới gặp anh đây” (Mưa xuân); anh lái đò kia thất tình phẫn chí định bỏ nghề, nhưng rồi lại thôi: “Lang thang anh dạm bán thuyền – Có người trả chín quan tiền lại thôi” (,Anh lái đò); một chàng thất tình khác oán hờn mà chẳng nặng lời: “Em đã sang ngang với một người – Anh còn trồng cải nữa hay thôi? – Đêm qua mơ thấy hai con bướm – Khép cánh tình chung ở giữa trời” (Hết bướm vàng); đau đớn hơn: người yêu yểu mệnh, nhưng nỗi đau ấy đã hòa tan cùng mộng ảo: “Đêm qua nàng đã chết rồi – Nghẹn ngào tôi khóc, quả tôi yêu nàng –  Hồn trinh còn ở trần gian – Nhập vào bướm trắng mà sang bên này” (Người hàng Jfóm)…; và trước thái độ quá thờ ơ của cô gái hái mơ, khách đa tình cũng chỉ trách móc mơ màng:

Cô hái mơ ơi, cô gái ơi

Chả trả lời nhau lấy một lời

Cứ lặng rồi đi, rồi khuất bóng

Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi…

(Cô hái mơ)

Đặc điểm dân gian, dân tộc ấy trong cấu tứ khiến những bài thơ tình Nguyễn Bính, trước và sau 1945 dễ dàng tìm được sự đồng cảm và tiếp đón hào hứng của một số lượng độc giả lớn (thành phố và tỉnh nhỏ, thành thị và nông thôn…) mà có lẽ chưa nhà thơ lãng mạn nào đạt được.

3.  Câu 3 trang 50 SGK Văn 11

Lời nhận định của Hoài Thanh rằng trong thơ Nguyễn Bính có “hồn xưa đất nước” rất đúng với bài Tương tư. Nhà thơ này yêu thôn quê một cách kì lạ, cái tình yêu ấy làm cho thơ ông, ở những câu bình dị nhất, vẫn có sức lôi cuốn, vẫn có cái duyên xao động lòng người:

Báo rằng cách trở đò giang,

Không sang là chẳng đường sang đã đành.

Nhưng đây cách một đầu đình,

Có xa xôi mấy mà tình xa xôi…

Dưới mắt ông, những cảnh sắc thông thường ở thôn quê cũng rất gợi cảm, đâu chỉ ánh trăng mới đẹp, mà cảnh mưa phùn gió bấc, hoa xoan, đường lầy hay nắng lửa trưa hè vẫn cứ làm ta xúc động, nhớ thương. Đó là tài năng của ông. Giọng ông vừa cất lên, người ta đã nhận ngay ra hình bóng quê hương làng mạc. Cách ăn nói nghĩ ngợi của bà con làng xóm đã thấm vào Nguyễn Bính. Nhiều khi không hẳn là nghĩa chữ, ý câu mà chỉ bằng cái giọng nói, cái cách nói, Nguyễn Bính đã gửi gắm, giao hoà tâm hồn chúng ta vào trong hồn của quê hương dân dã.

“Hương đồng gió nội” trong thơ Nguyễn Bính sáng tác trước 1945, được đông đảo độc giả mến mộ dài lâu. Hiện tượng ấy khiến chúng ta nhớ lại điều dự báo có sức khái quát của tác giả Thi nhân Việt Nam 50 năm trước: “Nếu các thi nhân ta đủ sức chân thành để thừa hưởng di sản xưa, nếu họ biết tìm đến thơ xưa với một tấm lòng trẻ, họ sẽ phát huy được những gì vĩnh viễn hơn, sâu sắc hơn mà bình dị hơn nòi giống. Nhất là ca dao sẽ đưa họ về với dân quê, nghĩa là với chín mươi phần trăm số neười trong nước. Trong nguồn sống dồi dào và mạnh mẽ ấy, họ sẽ tìm ra những vần thơ khống phải chỉ dành riêng cho chúng ta, một bọn người có học mới, mà có thể làm nao lòng hết thảy người Việt Nam”.

0