Soạn bài Thao tác lập luận bác bỏ lớp 11 ngắn gọn
Hướng dẫn các bạn soạn bài Thao tác lập luận bác bỏ trong chương trình sách giáo khoa Văn lớp 11 ngắn gọn đơn giản Để hiểu được mục đích, yêu cầu của thao tác lập luận bác bỏ. đồng thời biết cách lập luận bác bỏ trong bài nghị luận chúng ta cùng đi tìm hiểu bài thao tác lập luận bác bỏ. I. Mục ...
Hướng dẫn các bạn soạn bài Thao tác lập luận bác bỏ trong chương trình sách giáo khoa Văn lớp 11 ngắn gọn đơn giản Để hiểu được mục đích, yêu cầu của thao tác lập luận bác bỏ. đồng thời biết cách lập luận bác bỏ trong bài nghị luận chúng ta cùng đi tìm hiểu bài thao tác lập luận bác bỏ. I. Mục đích, yêu cầu của thao tác lập luận bác bỏ Trong đời sống cũng như trong sách báo, ta có thể bắt gặp những ý kiến sai lầm, những lời nói, bài viết lệch lạc, thiếu chính xác (trái ngược với thực tế, với đạo lí, không phù hợp với chân lí... hoặc sử dụng cách lập luận không logic, phản khoa học,...). Trước những tình huống ấy, ta thường trao đổi lại, tranh luận để bác bỏ ý kiến sai trái đó. Từ điển tiếng Việt giải thích: “Bác bỏ (đg): bác đi, gạt đi, không chấp nhận. Bác bỏ ý kiến. Bác bỏ luận điệu vu khống. Dự án bị bác bỏ.” Về bản chất, nghị luận là tranh luận để bác bỏ những quan điểm, ý kiến không đúng; bày tỏ và bênh vực những quan điểm, ý kiến đúng đắn. Đề nghị luận thêm sâu sắc và giàu tính thuyết phục, cần phải biết bác bỏ, tức là dùng các lí lẽ và dẫn chứng đúng đắn, khoa học để chỉ rõ những sai lầm, lệch lạc, thiếu khoa học của một quan điểm, ý kiến nào đó. Khi bác bỏ ý kiến người khác, cần nắm chắc những sai lầm của họ, đưa ra các lí lẽ bằng chứng thuyết phục với thái độ thẳng thắn nhưng cẩn trọng, có chừng mực, phù hợp với hoàn cảnh và đối tượng tranh luận. II. Cách bác bỏ 1. Đọc các đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi. a) Khởi đầu chương IV, nói về cá tính Nguyễn Du ta đọc thấy: “Trước hết ta phải ghi điều nhận xét quan trọng này: Nguyễn Du là một con bệnh thần kinh” (tr. 20) rồi xa một chút ít: “... một cảnh đêm thu,trong một túp lều dưới một ngọn đồi, thi sĩ đang quằn quại trên giường, vì bệnh thần kinh của mình” (tr. 131). Ta tự hỏi: Tác giả căn cứ vào đâu mà biết như vậy rằng Nguyễn Du mắc bệnh thần kinh, một thứ “bệnh thần kinh không có sự tổn thương về khí quan”? Căn cứ vào những chứng ngôn của người đồng thời với Nguyễn Du, hay vào những di bút của thi sĩ? Không thế đâu. Về di bút của Nguyễn Du, tác giả có dẫn mấy câu trích bài Mạn hứng, bài U cư, nhưng những câu đó chỉ nói rằng Nguyễn Du mắc bệnh thôi, chứ không nói là mắc bệnh thần kinh. Pa-xcan cũng là người mang bệnh, mà tư tưởng ông vẫn sáng suốt và khoẻ mạnh phi thường. Tác giả đã căn cứ và khiếu ảo giác của Nguyễn Du, biểu thị ở bài Văn tế thập loại chúng sinh và mấy bài thơ khác nữa. Tác giả cho rằng Nguyễn Du đã trông thấy ma quỷ thực (ở bài Lam giang) chứ không phải thấy chúng trong tưởng tượng. Căn cứ vào mấy bài thơ mà quyết đoán rằng người làm ra nó mắc chứng bệnh loạn thần kinh đến nỗi luôn luôn trông thấy ảo hình, đã là một sự qua bạo. Gia dĩ tác giả lại không đem bằng chứng nào khác nữa để bênh vực thuyết của ông ngoài cái lòng tin quả quyết của ông... Để chứng rằng một người trông thấy ma quỷ thực mà dẫn mấy câu tựa như: “Dĩ ngạn băng bạo lôi – Hồng đào kiến kì quỷ, thì lối lập luận ấy có khoa học không? Nêu không có bằng chứng gì khác mấy bài thơ tả sợ hãi và sầu muộn của Nguyễn Du, thì cái mà tác giả bảo là ảo giác (hallucinations), ta cho là tưởng tượng của nghệ sĩ. Có những thi sĩ Anh Cát Lợi, Na Uy, Đan Mạch thường sẵn thứ tưởng tượng kì dị, có khi quái dị ấy. Thiết tưởng một người ban ngày đã trông thấy ma quỷ, ban đi trông thấy âm hồn, tất phải là một người có bộ thần kinh rối loạn và khủng hoảng tới cực độ và người ấy không tài nào có được cái nghệ thuật miinh mẫn của kẻ tạo ra Truyện Kiều. (Đinh Gia Trinh, Hoài vọng của lí trí, NXB Văn học, Hà Nội, 1996) b) Nhiều đồng bào chúng ta, để biện minh việc từ bỏ tiếng mẹ đẻ, đã than phiền rằng tiếng nước mình nghèo nàn. Lời trách này không có cơ sở nào cả. Họ chỉ biết những từ thông dụng của ngôn ngữ và cong nghèo những từ An Nam hơn bất cứ người phụ nữ và nông dân An Nam vào. Ngôn ngữ của Nguyễn Du nghèo hay giàu? Vì sao người An Nam có thể dịch những tác phẩm của Trung Quốc sang nước mình, mà lại không thể viết các tác phẩm tương tự? Phải quy lỗi cho sự nghèo nàn của ngôn ngữ hay sự bất tài của con người? (Nguyễn An Ninh, Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức) c) ... Có người bảo: Tôi hút, tôi bị bệnh, mặc tôi! Xin đáp lại: Hút thuốc là quyền của anh, nhưng anh không có quyền đầu độc những người ở gần anh. Anh uông rượu say mèm, anh làm anh chịu. Nhưng hút thuốc thì người gần anh cũng hít phải luồng khói độc. Điều này hàng nghìn công trình nghiên cứu đã chứng minh rất rõ. Vợ con, những người làm việc cùng phòng với những người nghiện thuốc cũng bị nhiễm độc, cũng đau tim mạch, viêm phế quản, cũng bị ung thư. Anh có quyền hút, những có mặt người khác, xin mời anh ra ngoài sân, ngoài hành lang mà hút. Tội nghiệp thay những cái thai còn nằm trong bụng mẹ, chỉ vì có người hút thuốc ngồi cạnh mẹ mà thai bị nhiễm độc, rồi mẹ đẻ non, con sinh ra đã suy yếu. Hút thuốc cạnh một người đàn bà có thai quả là một tội ác. Bố và anh hút, chú bác hút không những đầu độc con em mà còn nêu gương xấu... (Nguyễn Khắc Viện, Ôn dịch, thuốc lá) Câu hỏi: Trong ba đoạn trích trên: - Luận điểm nào bị bác bỏ? Bác bỏ bằng cách nào? - Luận cứ nào bị bác bỏ? Cách bác bỏ ra sao? - Cách lập luận nào bị bác bỏ? Hãy phân tích. Trả lời: a. - Luận điểm bị bác bỏ là: “Nguyễn Du là một con bệnh thần kinh” - Bác bỏ bằng cách phân tích những luận điểm sai lệch, thiếu chính xác, không có căn cứ khoa học của Nguyễn Bách Khoa. - Luận cứ được đưa ra để bác bỏ là: Về di bút của Nguyễn Du và Căn cứ vào cái khiếu ảo giác của Nguyễn Du - Cách diễn đạt trong thao tác lập luận bác bỏ của tác giả: + Phối hợp câu tường thuật, câu cảm thán, câu hỏi tu từ + Sử dụng biện pháp so sánh với những thi sĩ có trí tưởng tượng như Nguyễn Du b. - Luận điểm bị bác bỏ là: “Nhiều đồng bào chúng ta, để biện minh việc từ bỏ tiếng mẹ đẻ, đã than phiền rằng tiếng nước mình nghèo nàn”. - Bác bỏ bằng cách Chỉ ra nguyên nhân - Luận cứ được đưa ra để bác bỏ là Phải quy lỗi cho sự nghèo nàn của ngôn ngữ hay sự bất tài của con người? và Phân tích những khía cạnh sai lệch, thiếu chính xác của “đồng bào” c. - Luận điểm bị bác bỏ là: “Tôi hút, tôi bị bệnh, mặc tôi!” - Bác bỏ bằng cách Phân tích tác hại của việc hút thuốc lá và chỉ ra nguyên nhân của nó - Luận cứ được đưa ra để bác bỏ là: Hút thuốc là quyền của anh, nhưng anh không có quyền đầu độc những người ở gần anh. 2. Hãy cho biết các cách thức bác bỏ. Trả lời: Cách thức bác bỏ: - Nêu tác hại - Chỉ ra nguyên nhân hoặc phân tích những khía cạnh sai lệch, thiếu chính xác. Xem thêm: Soạn bài Từ ấy lớp 11 ngắn gọn - Tố Hữu
Hướng dẫn các bạn soạn bài Thao tác lập luận bác bỏ trong chương trình sách giáo khoa Văn lớp 11 ngắn gọn đơn giảnĐể hiểu được mục đích, yêu cầu của thao tác lập luận bác bỏ. đồng thời biết cách lập luận bác bỏ trong bài nghị luận chúng ta cùng đi tìm hiểu bài thao tác lập luận bác bỏ.
I. Mục đích, yêu cầu của thao tác lập luận bác bỏ
Trong đời sống cũng như trong sách báo, ta có thể bắt gặp những ý kiến sai lầm, những lời nói, bài viết lệch lạc, thiếu chính xác (trái ngược với thực tế, với đạo lí, không phù hợp với chân lí... hoặc sử dụng cách lập luận không logic, phản khoa học,...). Trước những tình huống ấy, ta thường trao đổi lại, tranh luận để bác bỏ ý kiến sai trái đó.
Từ điển tiếng Việt giải thích: “Bác bỏ (đg): bác đi, gạt đi, không chấp nhận. Bác bỏ ý kiến. Bác bỏ luận điệu vu khống. Dự án bị bác bỏ.”
Về bản chất, nghị luận là tranh luận để bác bỏ những quan điểm, ý kiến không đúng; bày tỏ và bênh vực những quan điểm, ý kiến đúng đắn. Đề nghị luận thêm sâu sắc và giàu tính thuyết phục, cần phải biết bác bỏ, tức là dùng các lí lẽ và dẫn chứng đúng đắn, khoa học để chỉ rõ những sai lầm, lệch lạc, thiếu khoa học của một quan điểm, ý kiến nào đó.
Khi bác bỏ ý kiến người khác, cần nắm chắc những sai lầm của họ, đưa ra các lí lẽ bằng chứng thuyết phục với thái độ thẳng thắn nhưng cẩn trọng, có chừng mực, phù hợp với hoàn cảnh và đối tượng tranh luận.
II. Cách bác bỏ
1. Đọc các đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi.
a)
Khởi đầu chương IV, nói về cá tính Nguyễn Du ta đọc thấy: “Trước hết ta phải ghi điều nhận xét quan trọng này: Nguyễn Du là một con bệnh thần kinh” (tr. 20) rồi xa một chút ít: “... một cảnh đêm thu,trong một túp lều dưới một ngọn đồi, thi sĩ đang quằn quại trên giường, vì bệnh thần kinh của mình” (tr. 131). Ta tự hỏi: Tác giả căn cứ vào đâu mà biết như vậy rằng Nguyễn Du mắc bệnh thần kinh, một thứ “bệnh thần kinh không có sự tổn thương về khí quan”? Căn cứ vào những chứng ngôn của người đồng thời với Nguyễn Du, hay vào những di bút của thi sĩ? Không thế đâu. Về di bút của Nguyễn Du, tác giả có dẫn mấy câu trích bài Mạn hứng, bài U cư, nhưng những câu đó chỉ nói rằng Nguyễn Du mắc bệnh thôi, chứ không nói là mắc bệnh thần kinh. Pa-xcan cũng là người mang bệnh, mà tư tưởng ông vẫn sáng suốt và khoẻ mạnh phi thường. Tác giả đã căn cứ và khiếu ảo giác của Nguyễn Du, biểu thị ở bài Văn tế thập loại chúng sinh và mấy bài thơ khác nữa. Tác giả cho rằng Nguyễn Du đã trông thấy ma quỷ thực (ở bài Lam giang) chứ không phải thấy chúng trong tưởng tượng. Căn cứ vào mấy bài thơ mà quyết đoán rằng người làm ra nó mắc chứng bệnh loạn thần kinh đến nỗi luôn luôn trông thấy ảo hình, đã là một sự qua bạo. Gia dĩ tác giả lại không đem bằng chứng nào khác nữa để bênh vực thuyết của ông ngoài cái lòng tin quả quyết của ông... Để chứng rằng một người trông thấy ma quỷ thực mà dẫn mấy câu tựa như: “Dĩ ngạn băng bạo lôi – Hồng đào kiến kì quỷ, thì lối lập luận ấy có khoa học không? Nêu không có bằng chứng gì khác mấy bài thơ tả sợ hãi và sầu muộn của Nguyễn Du, thì cái mà tác giả bảo là ảo giác (hallucinations), ta cho là tưởng tượng của nghệ sĩ. Có những thi sĩ Anh Cát Lợi, Na Uy, Đan Mạch thường sẵn thứ tưởng tượng kì dị, có khi quái dị ấy. Thiết tưởng một người ban ngày đã trông thấy ma quỷ, ban đi trông thấy âm hồn, tất phải là một người có bộ thần kinh rối loạn và khủng hoảng tới cực độ và người ấy không tài nào có được cái nghệ thuật miinh mẫn của kẻ tạo ra Truyện Kiều.
(Đinh Gia Trinh, Hoài vọng của lí trí, NXB Văn học, Hà Nội, 1996)
b)
Nhiều đồng bào chúng ta, để biện minh việc từ bỏ tiếng mẹ đẻ, đã than phiền rằng tiếng nước mình nghèo nàn. Lời trách này không có cơ sở nào cả. Họ chỉ biết những từ thông dụng của ngôn ngữ và cong nghèo những từ An Nam hơn bất cứ người phụ nữ và nông dân An Nam vào. Ngôn ngữ của Nguyễn Du nghèo hay giàu?
Vì sao người An Nam có thể dịch những tác phẩm của Trung Quốc sang nước mình, mà lại không thể viết các tác phẩm tương tự?
Phải quy lỗi cho sự nghèo nàn của ngôn ngữ hay sự bất tài của con người?
(Nguyễn An Ninh, Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức)
c)
... Có người bảo: Tôi hút, tôi bị bệnh, mặc tôi!
Xin đáp lại: Hút thuốc là quyền của anh, nhưng anh không có quyền đầu độc những người ở gần anh. Anh uông rượu say mèm, anh làm anh chịu. Nhưng hút thuốc thì người gần anh cũng hít phải luồng khói độc. Điều này hàng nghìn công trình nghiên cứu đã chứng minh rất rõ.
Vợ con, những người làm việc cùng phòng với những người nghiện thuốc cũng bị nhiễm độc, cũng đau tim mạch, viêm phế quản, cũng bị ung thư. Anh có quyền hút, những có mặt người khác, xin mời anh ra ngoài sân, ngoài hành lang mà hút.
Tội nghiệp thay những cái thai còn nằm trong bụng mẹ, chỉ vì có người hút thuốc ngồi cạnh mẹ mà thai bị nhiễm độc, rồi mẹ đẻ non, con sinh ra đã suy yếu. Hút thuốc cạnh một người đàn bà có thai quả là một tội ác.
Bố và anh hút, chú bác hút không những đầu độc con em mà còn nêu gương xấu...
(Nguyễn Khắc Viện, Ôn dịch, thuốc lá)
Câu hỏi:
Trong ba đoạn trích trên:
- Luận điểm nào bị bác bỏ? Bác bỏ bằng cách nào?
- Luận cứ nào bị bác bỏ? Cách bác bỏ ra sao?
- Cách lập luận nào bị bác bỏ? Hãy phân tích.
Trả lời:
a.
- Luận điểm bị bác bỏ là: “Nguyễn Du là một con bệnh thần kinh”
- Bác bỏ bằng cách phân tích những luận điểm sai lệch, thiếu chính xác, không có căn cứ khoa học của Nguyễn Bách Khoa.
- Luận cứ được đưa ra để bác bỏ là: Về di bút của Nguyễn Du và Căn cứ vào cái khiếu ảo giác của Nguyễn Du
- Cách diễn đạt trong thao tác lập luận bác bỏ của tác giả:
+ Phối hợp câu tường thuật, câu cảm thán, câu hỏi tu từ
+ Sử dụng biện pháp so sánh với những thi sĩ có trí tưởng tượng như Nguyễn Du
b.
- Luận điểm bị bác bỏ là: “Nhiều đồng bào chúng ta, để biện minh việc từ bỏ tiếng mẹ đẻ, đã than phiền rằng tiếng nước mình nghèo nàn”.
- Bác bỏ bằng cách Chỉ ra nguyên nhân
- Luận cứ được đưa ra để bác bỏ là Phải quy lỗi cho sự nghèo nàn của ngôn ngữ hay sự bất tài của con người? và Phân tích những khía cạnh sai lệch, thiếu chính xác của “đồng bào”
c.
- Luận điểm bị bác bỏ là: “Tôi hút, tôi bị bệnh, mặc tôi!”
- Bác bỏ bằng cách Phân tích tác hại của việc hút thuốc lá và chỉ ra nguyên nhân của nó
- Luận cứ được đưa ra để bác bỏ là: Hút thuốc là quyền của anh, nhưng anh không có quyền đầu độc những người ở gần anh.
2. Hãy cho biết các cách thức bác bỏ.
Trả lời:
Cách thức bác bỏ:
- Nêu tác hại
- Chỉ ra nguyên nhân hoặc phân tích những khía cạnh sai lệch, thiếu chính xác.
Xem thêm: