Soạn bài đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
Soạn bài đất nước của Nguyễn Khoa Điềm (Trích trường ca Mặt đường khát vọng) I. Tác giả và tác phẩm 1. Tác giả Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, tại Huế. Ông học và tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội ngành Văn. Thời chống Mĩ, ông sống và chiến đấu tại chiến trường Bình Trị Thiên. Nguyễn Khoa ...
Soạn bài đất nước của Nguyễn Khoa Điềm (Trích trường ca Mặt đường khát vọng) I. Tác giả và tác phẩm 1. Tác giả Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, tại Huế. Ông học và tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội ngành Văn. Thời chống Mĩ, ông sống và chiến đấu tại chiến trường Bình Trị Thiên. Nguyễn Khoa Điềm từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin. Các tác phẩm thơ tiêu biểu của ông có Đất ngoại ô, Mặt đường khát vọng… Thơ của Nguyễn Khoa Điềm đậm đà, bình dị, ...
(Trích trường ca Mặt đường khát vọng)
I. Tác giả và tác phẩm
1. Tác giả
Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, tại Huế. Ông học và tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội ngành Văn. Thời chống Mĩ, ông sống và chiến đấu tại chiến trường Bình Trị Thiên. Nguyễn Khoa Điềm từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin.
Các tác phẩm thơ tiêu biểu của ông có Đất ngoại ô, Mặt đường khát vọng…
Thơ của Nguyễn Khoa Điềm đậm đà, bình dị, hồn nhiên, giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén, thể hiện tâm tư của người thanh niên trí thức tham gia tích cực vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước.
2. Tác phẩm
Trường ca Mặt đường khát vọng được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác năm 1971. Đất Nước là chương thứ V trong trường ca. Đoạn thơ chính là sự thức tỉnh của thế hệ trẻ ở các thành thị miền Nam, và rộng ra, sự tự nhận thức của tuổi trẻ Việt Nam trong những năm chiến tranh này là đi đến sự lựa chọn quyết định: đứng về phía nhân dân, Tổ quốc, chia sẻ vận mệnh và trách nhiệm với dân tộc trong cuộc đấu tranh thiêng liêng để giải phóng và bảo vệ đất nước.
Đất Nước cô đọng kết quả nhận thức của tác giả và cũng là của thế hệ trẻ Việt Nam về đất nước – một nhận thức có thể làm điểm tựa để họ xác định vai trò, vị trí của mình trong cuộc đấu tranh vĩ đại của dân tộc.
Cái riêng biệt, độc đáo của đoạn thơ này là sự cảm nhận, phát hiện về đất nước trong một cái nhìn tổng hợp, toàn vẹn, mang đậm tư tưởng nhân dân, sử dụng phong phú các yếu tố của văn hóa, văn học dân gian một cách sáng tạo và rất thích hợp với tư tưởng nhân dân của tác phẩm.
II. Tìm hiểu tác phẩm
1. Một định nghĩa về đất nước
- Phần mở đầu của đoạn trích như một định nghĩa về đất nước, nhưng đây là định nghĩ theo cách riêng của nhà thơ, không trừu tượng, thuần lí như triết học hay chính trị, mà thông qua những hình tượng cụ thể, sinh động và gợi cảm.
- Nguyễn Khoa Điềm định nghĩa về đất nước về đất nước theo cách gần gũi, thân thiết, ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi người. Đất nước hiện lên qua những lời kể chuyện của mẹ, qua “miếng trầu bây giờ bà ăn”, qua cái kẹo cái cột, qua hạt gạo, miếng ăn hàng ngày. Nhắc đến đất nước, đồng thời nhắc đến cha, mẹ, ông bà, dân mình, nhắc đến gừng cay, muối mặn, nhắc đến hạt gạo, bờ tre… Đây cũng là điểm xuất phát của những suy tư ở nhà thơ khi nghĩ về đất nước.
- Hơn nữa, đất nước không phải là cái gì xa lạ mà ở ngay trong máu thịt mỗi người, trong anh và em, tức trong từng con người Việt Nam cụ thể:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước.
Qua cách định nghĩa về đất nước của mình, nhà thơ đã nói lên được sự gắn bó máu thịt giữa số phận của từng cá nhân với vận mệnh chung của cả cộng đồng, của đất nước. Đây chính là tư tưởng chung của thời đại khi mà vấn đề dân tộc nổi lên như một vấn đề cơ bản nhất, có tính quyết định và chi phối hầu như tất cả các vấn đề khác. Từ đó, tác giả đặt vấn đề trách nhiệm, bổn phận của cá nhân đối với đất nước một cách tự nhiên:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…
Như vậy, Đất Nước là sự thông nhất giữa cái chung và cái riêng, giữa cá nhân với cộng đồng, giữa cái nhỏ bé và to lớn, giữa cái gần và cái xa, giữa cái cụ thể, vật chất với cái trừu tượng, tinh thần.
2. Cảm nhận về đất nước
- Cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm thật đa dạng, trên nhiều bình diện, từ chiều dài lịch sử (quá khứ - hiện tại – tương lai), đến chiều rộng của không gian – địa lí và nhất là trong bề dày văn hóa – phong tục, lối sống, tâm hồn, tính cách dân tộc. Cả ba bình diện ấy đều có sự gắn bó, thống nhất với nhau.
- Nhà thơ đã khai thác các thành tố Đất và Nước trong mối quan hệ với không gian – thời gian, với lịch sử và hiện tại. Chiều sâu của lịch sử, truyền thống, phong tục và văn hóa đất nước được gợi lên từ huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, từ truyền thống Hùng Vương, từ những câu ca dao quen thuộc. Đất nước là không gian sinh tồn của con người (Đất là nơi anh đến trường – Nước là nơi em tắm – Đất Nước là nơi ta hò hẹn…). Nhưng sự trường tồn của Đất Nước lại chính là sự trường tồn của con người, qua con người (Nhưng ai đã khuất – Những ai bây giờ - Yêu nhau và sinh con đẻ cái – Gánh vấc phần người đi trước để lại – Dặn dò con cháu chuyện mai sau…).
3. Sự thể hiện tập trung: Đất nước của nhân dân, chính nhân dân sáng tạo nên đất nước
- Tư tưởng đất nước của nhân dân không phải là hoàn toàn mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm, nhưng được tác giả và các nhà thơ cùng thế hệ nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn (về quan điểm, vai trò nhân dân trong thời đại mới). Điều đó khiến cho mỗi câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm là một khám phá kỳ thú từ những điều quen thuộc, thậm chí đã cũ:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm in góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bụt, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm.
Ở đây, từng cảnh vật quê hương qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo nên đất nước này, đã đặt tên và ghi dấu cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất. Từ đó, nhà thơ khái quát thành một hình tượng có tính biểu trưng:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…
Tư tưởng “đất nước của nhân dân” đã chi phối cách nhìn của nhà thơ về lịch sử dân tộc. Nhà thơ không ngợi ca các triều đại, không nói đến những anh hùng đã ghi danh trong sử sách mà nhấn mạnh đến những người Không ai nhớ mặt đặt tên – Họ đã sống và chết – Giản dị và bình tâm, song chính nhờ họ mà dân tộc trường tồn:
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyển lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu cho con mình tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái.
Mạch suy nghĩ và cảm xúc của bài thơ đã dồn nén, bật rat ư tưởng cốt lõi của toàn bài, vừa bất ngờ, vừa giản dị, độc đáo:
… Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân
Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại.
4. Kết luận
Đọc chương Đất Nước, ta thấy rõ dấu ấn của vốn văn hóa, tri thức nhà trường và sách vở. Điều đó cũng là lẽ thường trong sáng tạo văn học. Nhưng đây là chương tiêu biểu và tinh túy nhất của bản trường ca. Bài thơ tạo nên được những rung động, âm vang trong lòng người đọc chính là nhờ tác giả, từ cảm xúc chân thành, từ sự trải nghiệm của mình và nhất là từ tình yêu quê hương, đất nước thiết tha gợi lên suy ngẫm của cả một thế hệ trong bối cảnh gian nan và cũng rất hào hùng của dân tộc. Chính vì thế, dù thời gian trôi qua, tư tưởng ấy vẫn mới mẻ trong niềm cảm xúc nồng ấm về đất nước của người đọc hôm nay.