Ribosome
(phiên âm ribôxôm, riboxom hoặc ribô thể) là một bào quan có mặt ở trong tất cả các tế bào của sinh vật sống. Chúng đảm nhiệm chức năng thực hiện quá trình sinh tổng hợp protein của tế bào. Các ribosome được cấu tạo từ các rARN và ribosome protein. Nó dịch ...
(phiên âm ribôxôm, riboxom hoặc ribô thể) là một bào quan có mặt ở trong tất cả các tế bào của sinh vật sống. Chúng đảm nhiệm chức năng thực hiện quá trình sinh tổng hợp protein của tế bào. Các ribosome được cấu tạo từ các rARN và ribosome protein. Nó dịch mã mARN thành chuỗi polypeptide (đơn vị cấu thành protein). được xem như là một nhà máy tổng hợp ra protein dựa trên các thông tin di truyền của gene. có thể nằm tự do trong tế bào chất hay bám trên màng của mạng lưới nội chất.
gồm hai tiểu đơn vị kết hợp vừa vặn với nhau để cùng tham gia quá trình sinh tổng hợp protein. Mỗi tiểu đơn vị gồm 1 hay 2 phần tử ARN rất lớn (còn gọi là ARN ribosome hay rARN) và nhiều phân tử protein nhỏ. Các thí nghiệm cho thấy rằng rARN là thành phần cơ bản trong quá trình tổng hợp protein, và liên kết peptide có thể hình thành (mặc dù rất chậm) khi chỉ có mặt rARN. Điều này cho thấy rằng thành phần protein của ribosome đóng vai trò là giá đỡ giúp tăng khả năng xúc tác phản ứng của rARN. Nói cách khác, ribosome được coi là một ribozyme xúc tác hình thành liên kết peptide.
Cấu trúc và chức năng của ribosome, và các phân tử liên quan, còn gọi là phức hệ phiên mã (translational apparatus), từng là mối quan tâm nghiên cứu kể từ giữa thế kỉ 20 đến đầu thế kỉ 21. Một hội thảo 3 năm một lần được tổ chức để thảo luận về ribosome. Năm 2002, hội thảo đã được tổ chức ở Queenstown, New Zealand.
Tiểu đơn vị lớn (1) kết hợp vừa vặn với tiểu đơn vị nhỏ (2)
Cấu trúc siêu vi của tiểu đơn vị lớn 50S của loài archaea Haloarcula marismortui đã được công bố trên tạp chí Science năm 2000. Không lâu sau đó, cấu trúc tiểu đơn vị nhỏ 30S của Thermus thermophilus cũng được công bố trên tạp chí Nature. Toàn bộ cấu trúc ribosome 70S được tái hiện vào năm 2001 trong công trình của Yusupov et al trên tạp chí Science.đây là cấu trúc của riboxom ở tế bào nhân sơ. còn ở tế bào nhân thực thì độ lắng lần lượt là 40, 60, 80s.
tự do có mặt ở trong mọi tế bào, và còn ở trong ty thể và lục lạp ở trong tế bào eukaryote. Nhiều ribosome tự do có thể bám vào một mARN để tạo thành polyribosome (hay polysome). tự do thường tạo ra protein để dùng trong tế bào chất hay trong các bào quan chứa chúng.