24/05/2018, 19:07

Quản lý Nhà nước về tiền lương thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước

Chính sách tiền lương là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế xã hội của đất nước. Chính sách này liên quan trực tiếp đến lợi ích của đông đảo người lao động trong xã hội và được Nhà nước quản lý. Nhà nước quản lý thống ...

Chính sách tiền lương là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế xã hội của đất nước. Chính sách này liên quan trực tiếp đến lợi ích của đông đảo người lao động trong xã hội và được Nhà nước quản lý. Nhà nước quản lý thống nhất về tiền lương. Đối với người lao động là công nhân viên chức, Nhà nước trực tiếp quản lý tiền lương (theo các chỉ tiêu cụ thể về đối tượng hưởng lương, bậc lương và tiền lương tối thiểu). Nhà nước cũng thực hiện một cơ chế kiểm soát trong thực hiện chính sách và chế độ tiền lương, trên cơ sở luật pháp về tiền lương, các hợp đồng lao động và thuế thu nhập. Đối với người lao động không phải là công nhân viên chức Nhà nước, Nhà nước cũng thực hiện quản lý và kiểm soát tiền lương trên cơ sở luật pháp về lao động và tiền lương.

* Việc quản lý Nhà nước về tiền lương được phân cấp thực hiện như sau :

  • Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan quản lý Nhà nước về tiền lương ở cấp cao nhất. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành các văn bản pháp luật để hướng dẫn các doanh nghiệp phương pháp xây dựng đơn giá tiền lương, các thông số tiền lương và các hệ số điều chỉnh cần thiết và thông báo các thông tin cần thiết về tiền lương trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Qua đó chỉ đạo việc quản lý tiền lương của các Bộ, ngành và địa phương trong toàn quốc.
  • Các Bộ quản lý ngành, các đại phương (cấp tỉnh, thành phố) có trách nhiệm và quyền hạn quản lý công tác tiền lương của các doanh nghiệp, cơ quan trong phạm vi của mình trên cơ sở chỉ đạo của Bộ LĐ - TB&XH. Trong đó, phải báo cáo thường xuyên lên Bộ LĐ - TB&XH về công átc quản lý tiền lương tại Bộ, ngành mình.
  • Các doanh nghiệp có trách nhiệm thực hiện công tác lao động, tiền lương theo quy định, trong đó công tác tổ chức, xây dựng đơn giá và thực hiện các thủ tục hành chính cần thiết trong hoạt động tiền lương; và báo cáo lên cơ quan quản lý cấp trên về tiền lương và thu nhập của doanh nghiệp mình.

* Quản lý tiền lương, thu nhập của Nhà nước có những nội dung cụ thể sau :

  • Nghiên cứu ban hành hệ thống văn bản pháp lý về tiền lương, thu nhập như :

+ Từng thời kỳ ban hành mức tiền lương tối thiểu chung, mức tiền lương tối thiểu theo khu vực, mức tiền lương tối thiểu theo vùng;

+ Xác định hệ thống thước đo giá trị thông qua hệ thống thang lương, bảng lương, chế độ phụ cấp lương;

+ Quy định các chế độ trả lương và cơ chế quản lý tiền lương của từng khu vực;

+ Ban hành các tiêu chuẩn nghề, tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật công nhân, tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và các phương pháp xây dựng định mức lao động tổng hợp cho các thành phần kinh tế.

  • Xây dựng chương trình mục tiêu, chủ trương, phương hướng, kế hoạch về tiền lương, tiền công chung và của từng thành phần kinh tế cho từng thời kỳ.
  • Tổ chức kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện chính sách tiền lương, thu nhập, các tiêu chuẩn, định mức trong các thành phần kinh tế nói chung cũng như các doanh nghiệp nói riêng.

Khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, Nhà nước phải đứng trên giác độ chung để quản lý lao động, tiền lương trong phạm vi toàn xã hội nhưng đồng thời Nhà nước cũng phải tăng cường biện pháp quản lý tiền lương đối với doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này hoạt động có hiệu quả, ổn định việc làm, thu nhập cho người lao động và tiếp tục phát triền giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.

Khi nói đến quản lý tiền lương, thu nhập trong doanh nghiệp Nhà nước là nói đến việc xác định quan hệ phân phối lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Nói đến quan hệ phân phối thì chính là nói đến sở hữu, đến vai trò quyết địnhcủa chủ sở hữu, đến mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng. Sở hữu là vấn đề cốt lõi trong quan hệ sản xuất, vì người nào nắm quyền sở hữu thì người đó sẽ có quyền chiếm dụng, quyền định đoạt và quyền hưởng thụ. Cũng vì lẽ đó, sở hữu là xuất phát điểm, làm cơ sở cho chủ sở hữu quyết định sẽ quản lý tài sản của mình ra sao, sẽ phân phối kết quả sản xuất kinh doanh mà tài sản đó mang lại như thế nào.

Trong kinh tế quốc doanh, tính chất sở hữu ở đây chính là sở hữu toàn dân mà Nhà nước là người đại diện chủ sở hữu do vậy đương nhiên Nhà nước đóng vai trò quyết định chính sách phân phối. Nhưng vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước thì Nhà nước quản lý như thế nào, quản lý đến đâu và cụ thể là ai? 

Trong thời kỳ quản lý tập trung chúng ta đã tuyệt đối hoá vai trò của Nhà nước. Trung ương quyết định tất cả, quản lý tất cả, trong lĩnh vực lao động, tiền lương quyết định từ tuyển dụng, đào tạo đến mức lương, tổng quỹ lương... của doanh nghiệp. Sự tuyệt đối hoá có tính quan liêu này đã phải trả giá không nhỏ là triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp. Nhà nước trở thành chỗ dựa vững chắc cho các doanh nghiệp tồn tại, tiền lương do Ngân sách chi trả mang nặng tính bình quân, không gắn với năng suất, hiệu quả của từng người, của từng doanh nghiệp.

Nhận thấy những tồn tại trên, từ những năm đầu của thập kỷ 80 chúng ta đã bắt đầu đổi mới tổ chức, quản lý doanh nghiệp, bước đầu tách hai chức năng sở hữu và kinh doanh. Song xác định ai là người cụ thể đại diện chủ sở hữu trong doanh nghiệp qua thực tiễn đổi mới vừa qua cho thấy không phải là việc dễ dàng, nhiều công trình khoa học còn đang tiếp tục nghiên cứu để xác định rõ vấn đề này. Ở đây cần lưu ý một điều là không được hiểu lẫn lộn giữa Nhà nước sở hữu và Nhà nước kinh doanh trực tiếp. Nếu hiểu Nhà nước nói chung thì không những không tạo điều kiện tách hai chức năng sở hữu và kinh doanh mà sẽ dẫn đến tình trạng Nhà nước bao biện, làm thay cho doanh nghiệp, còn doanh nghiệp thì thiếu chủ động như trước đây. Nếu coi nhẹ mặt sở hữu sẽ dẫn đến thất thoát, lãng phí và đồng vốn thuộc sở hữu Nhà nước đạt hiệu quả thấp.

Từ thời kỳ kế hoạch hoá tập trung đến nay trong phạm vi một ngành, một vùng chúng ta vẫn xác định chủ sở hữu là các Bộ, ngành đối với doanh nghiệp ở Trung ương và địa phương đối với những doanh nghiệp ở địa phương. Nhưng khi thực hiện đang có sự xâm lấn nhau trong chức năng giữa cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp. Một mặt các cơ quan quản lý Nhà nước quản lý không chặt những vấn đề cần quản lý đối với các doanh nghiệp Nhà nước mà thường hay can thiệp sâu vào công việc quản lý tác nghiệp của doanh nghiệp. Mặt khác các doanh nghiệp ngoài chức năng kinh doanh lại còn được giao thực hiện một số công việc thuộc chức năng của các cơ quan quản lý Nhà nước. Việc can thiệp sâu vào công việc quản trị kinh doanh đã làm cho các doanh nghiệp tiếp tục ỷ lại Nhà nước, không phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm, không có khả năng đưa ra những giải pháp kịp thời cho những cơ hội làm ăn của mình, đồng thời đã làm cho các cơ quan chủ quản không tập trung được sức lực thời gian để thực hiện chức năng của chính mình là quản lý các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế hoạt động kinh doanh theo đúng hướng phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, tuân thủ đúng pháp luật.

Những vấn đề nêu trên cho thấy vấn đề chủ sở hữu trong doanh nghiệp vẫn chưa có giải pháp rõ ràng, giữa Nhà nước, Giám đốc và tập thể người lao động vẫn còn đan xen chưa có sự phân định minh bạch.

Do vấn đề chủ sở hữu chưa được xác định rõ ràng nên chính sách phân phối nói chung và chính sách tiền lương nói riêng đối với doanh nghiệp trong giai đoạn này còn nhiều quan điểm chưa phù hợp.

Tháng 4/1995 Luật doanh nghiệp đã được Quốc hội thông qua đã qui định rõ chủ sở hữu đối với tài sản công trong doanh nghiệp Nhà nước là Chính phủ, đồng thời cho phép Chính phủ phân cấp hoặc uỷ quyền cho các Bộ, ngành và Ủy ban thực hiện một số quyền này. Còn đối với doanh nghiệp, dù kinh doanh hay hoạt động công ích, chỉ được quyền quản lý, sử dụng vốn và tài sản của Nhà nước giao để thực hiện nhiệm vụ của mình và tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh trong phạm vi doanh nghiệp quản lý.

Luật doanh nghiệp nhà nước đã xác định rõ quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn và tài sản trong doanh nghiệp. Vì vậy vấn đề quản lý Nhà nước về tiền lương, thu nhập đối với các doanh nghiệp cũng phải xác định phù hợp với quyền sở hữu của Nhà nước.

Trước hết, Nhà nước giữ vai trò quy định chính sách tiền lương để các doanh nghiệp áp dụng;

Tiếp đến, Nhà nước quản lý thống nhất thông qua những biện pháp gián tiếp như ở giới hạn thấp nhất quy định tiền lương tối thiểu, ở giới hạn cao nhất thì điều tiết thông qua thuế thu nhập. Biện pháp trực tiếp như xác định yếu tố đầu vào chi phí tiền lương của sản phẩm, dịch vụ hoặc chính sách phân chia lợi nhuận.

Trong phạm vi nguồn quỹ thu nhập gồm quỹ tiền lương, quỹ tiền thưởng doanh nghiệp được quyền trả lương cho người lao động theo năng suất và mức độ đóng góp của từng người.

Tóm lại vai trò của Nhà nước về quản lý tiền lương đối với doanh nghiệp là hết sức cần thiết nhưng nội dung, phương pháp quản lý phải phù hợp với kinh tế thị trường.

Mô hình tổ chức quản lý tiền lương hiện nay như sau :

Để đáp ứng đòi hỏi của cơ chế quản lý kinh tế mới, Chính phủ đã ban hành Nghị định 26/CP ngày 25/03/1993 và Nghị định 28/CP ngày 28/3/1997 về đổi mới quản lý tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước. Trong đó Nhà nước không trực tiếp quản lý quỹ tiền lương của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có quyền tự xây dựng quỹ tiền lương thông qua đơn giá tiền lương được Nhà nước giao (trên cơ sở doanh nghiệp đã xác định đơn giá và có sự điều chỉnh của Nhà nước sao cho phù hợp với điều kiện của từng ngành, lĩnh vực, điều kiện thực tế và kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có tính đến giá cả sức lao động trên thị trường).

Việc quản lý tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước được quy định như sau :

Nguyên tắc chung:

- Các sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp nhà nước đều phải có định mức lao động và đơn giá tiền lương. Đơn giá tiền lương phải được xây dựng trên cơ sở định mức lao động trung bình tiên tiến của doanh nghiệp và các thông số tiền lương do Nhà nước quy định. Khi thay đổi về định mức lao động và các thông số tiền lương thì thay đổi đơn giá tiền lương.

  • Tiền lương và thu nhập phụ thuộc vào thực hiện khối lượng sản phẩm, dịch vụ, năng suất, chất lượng lao động và hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Tốc độ tăng tiền lương phải thấp hơn tốc độ tăng năng suất lao động.
  • Tiền lương và thu nhập của người lao động phải được thể hiện đầu đủ trong Sổ lương của doanh nghiệp theo mẫu thống nhất do Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội ban hành.
  • Quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi của doanh nghiệp được thực hiện theo khoản 4 và 5, Điều 33, Quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp Nhà nước ban hành kèm theo Nghị định số 59/CP ngày 03/10/1996 của Chính phủ và Nghị định số 27/1999/NĐ-CP ngày 20/4/1999 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước (ban hành kèm theo Nghị định số 59/CP ngày 03/10/1996 của Chính phủ).
  • Nhà nước quản lý tiền lương và thu nhập thông qua quản lý định mức lao động, đơn giá tiền lương và tiền lương thực hiện của doanh nghiệp.

Trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước:

* Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội:

- Trước tháng 4 hàng năm, thẩm định và giao đơn giá tiền lương cho các doanh nghiệp xếp hạng đặc biệt sau khi trao đổi ý kiến với Tổng cục quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp của Bộ Tài chính

- Hằng năm tổng hợp tình hình giao đơn giá tiền lương của tất cả các doanh nghiệp nhà nước từ Trung ương đến địa phương

- Thông báo mức lương bình quân chung của các doanh nghiệp được nhà nước giao đơn giá tiền lương vào cuối quý II, đầu quý III hằng năm làm cơ sở xác định lương bình quân thực hiện tối đa của các doanh nghiệp theo quy định tại khoản 2, điều 5 Nghị định số 28/CP ngày 28/3/1997 của Chính phủ.

- Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện, xây dựng đơn giá tiền lương và quản lý tiền lương, thu nhập của các doanh nghiệp thuộc Bộ quản lý ngành, lĩnh vực, các Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

* Đối với các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực:

- Trước tháng 4 hằng năm, thẩm định và giao đơn giá tiền lương cho các doanh nghiệp thuộc quyền quản lý

- Phối hợp với Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, thẩm định đơn giá tiền lương cho các Tổng công ty thành lập theo quyết định số 90/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ được xếp doanh nghiệp hạng đặc biệt

- Kiểm tra việc xây dựng, thực hiện đơn giá tiền lương và quản lý lao động, tiền lương, thu nhập của các doanh nghiệp thuộc quyền

* Uỷ ban nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo để Sở Lao động- Thương binh và Xã hội phối hợp với các Sở quản lý ngành, lĩnh vực:

- Hướng dẫn các doanh nghiệp thuộc quyền quản lý của địa phương để xây dựng đơn giá tiền lương theo quy định tại Thông tư 13/LĐTB&XH-TT ngày 10/4/4997

- Trước tháng 4 hàng năm, thẩm định và giao đơn giá tiền lương cho các doanh nghiệp nhà nước và các Công ty cổ phần có trên 50% vốn do doanh nghiệp nhà nước góp thuộc quyền quản sau khi trao đổi quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp ở địa phương.

- Thanh tra kiểm tra việc xây dựng, thực hiện đơn giá tiền lương và quản lý lao động, tiền lương, thu nhập của các doanh nghiệp trực thuộc địa phương.

* Cán bộ quản lý ngành, lĩnh vực và các Sở Lao động -Thương binh và Xã hội Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm:

- Chậm nhất vào tháng 5 hàng năm, báo cáo về Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tình hình đơn giá tiền lương hàng năm kế hoạch cho các doanh nghiệp thuộc quyền quản lý và tình hình lao động, tiền lương, thu nhập thực hiện năm trước của các doanh nghiệp theo mẫu số 1 và mẫu số 2 kèm theo thông tư 13/LĐTBXH-TT ngày 10/4/1997.

- Tổ chức và củng cố bộ phận chuyên trách làm công tác lao động - tiền lương, bố trí, bồi dưỡng cán bộ có đủ trình độ, nghiệp vụ chuyên môn thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, yêu cầu của công tác thẩm định, quản lý định mức lao động và đơn giá tiền lương theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn tại thông tư 13/LĐTBXH-TT ngày 10/4/1997.

Trách nhiệm của doanh nghiệp

* Về tổ chức công tác lao động tiền lương:

- Để thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, yêu cầu của công tác quản lý theo Bộ Luật lao động và Luật doanh nghiệp Nhà nước; thực hiện việc xây dựng định mức lao động, tổ chức và phân công lao động, xây dựng đơn giá tiền lương và phân phối tiền lương gắn với năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh doanh của đơn vị và cá nhân người lao động, các doanh nghiệp phải tổ chức, củng cố bộ phận chuyên trách làm công tác lao động - tiền lương của doanh nghiệp, bố trí và bồi dưỡng cán bộ có đủ trình độ nghiệp vụ, chuyên môn thực hiện công việc theo yêu cầu.

* Về xây dựng đơn giá tiền lương:

- Đối với doanh nghiệp Nhà nước nói chung:

Giám đốc doanh nghiệp có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo xây dựng và đăng ký định mức lao động theo quy định.

- Đối với doanh nghiệp được xếp hạng đặc biệt:

Tổng Giám đốc có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo xây dựng và đăng ký mức lao động theo hướng dẫn tại Thông tư số 14/LĐTBXH-TT ngày 10/4/1997 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; xây dựng đơn giá tiền lương báo cáo Hội đồng quản trị hoặc Bộ quản lý ngành, lĩnh vực (nếu là tổng Công ty 90/TT được xếp hạng đặc biệt) xem xét, có công văn gửi Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đề nghị thẩm định và giao đơn giá tiền lương.

Các doanh nghiệp phải tiến hành xây dựng đơn giá tiền lương từ quý IV năm báo cáo để gửi cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền kịp thẩm định và giao đơn giá tiền lương vào quý I năm kế hoạch.

* Thủ tục hành chính đề nghị duyệt đơn giá tiền lương:

Theo phân cấp và tổ chức quản lý, sau khi xây dựng đơn giá tiền lương, doanh nghiệp có công văn gửi cơ quan có thẩm quyền thẩm định và giao đơn giá tiền lương theo quy định tại điểm 2 nói trên;

Công văn gửi kèm các biểu sau:

- Biểu trình xây dựng đơn giá tiền lương theo mẫu số 3a và số 3b.

- Đối với doanh nghiệp có nhiều đơn vị thành viên và có nhiều đơn giá tiền lương thì lập biểu tổng hợp đơn giá tiền lương theo mẫu số 4.

* Báo cáo tình hình thực hiện lao động, tiền lương và thu nhập.

Vào quý I chậm nhất là tháng 4 năm kế hoạch, doanh nghiệp phải báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền giao đơn giá tình hình thực hiện lao động, tiền lương và thu nhập của năm trước liền kề theo mẫu số 5 kèm theo Thông tư 13/ LĐTBXH-TT ngày 10/4/1997.

Xác định quỹ tiền lương thực hiện theo kết quả sản xuất kinh doanh.

* Điều kiện xác định quỹ tiền lương thực hiện:

- Các chỉ tiêu tổng sản phẩm hàng hoá (kể cả sản phẩm quy đổi), tổng doanh thu, chi phí, lợi nhuận thực hiện được xác định theo quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp Nhà nước ban hành kèm theo nghị định số 59/ CP ngày3/10/1996 của Chính phủ. Trong các chỉ tiêu nêu trên, nếu có yếu tố tăng hoặc giảm do nguyên nhân khách quan, không tính đến khi xây dựng đơn giá tiền lương thì phải loại trừ khi xác định quỹ tiền lương thực hiện.

- Trước khi xác định quỹ tiền lương thực hiện, doanh nghiệp phải đánh giá và xác định các khoản nộp ngân sách Nhà nước, lợi nhuận thực hiện và so sánh với năm trước đó. Nếu các chỉ tiêu này không đảm bảo đủ điều kiện được áp dụng hệ số điều chỉnh tăng thêm theo quy định tại tiết b.3, điểm 2 mục III của thông tư 13/ LĐTBXH-TT ngày 10/4/1997 thì doanh nghiệp phải trừ lùi quỹ tiền lương thực hiện cho đến khi đảm bảo đủ điều kiện theo quy định nói trên.

* Xác định quỹ tiền lương thực hiện :

- Căn cứ vào đơn giá tiền lương do cơ quan có thẩm quyền giao và kết quả sản xuất, kinh doanh, quỹ tiền lương được xác định như sau :

Vth = (Vđg x Csxkd) + Vpc +Vbs + Vtg

Trong đó :

Vth : Quỹ tiền lương thực hiện

Vđg : Đơn giá tiền lương do cơ quan có thẩm quyền giao

Csxkd : Chỉ tiêu sản xuất kinh doanh theo tổng sản phẩm hàng hóa thực hiện, hoặc doanh thu (doanh số thực hiện), hoặc tổng thu trừ tổng chi (không có tiền lương), hoặc lợi nhuận thực hiện ứng với chỉ tiêu giao đơn giá tiền lương

Vpc : Quỹ các khoản phụ cấp lương và các chế độ khác (nếu có) không được tính trong đơn giá trong quy định (ví dụ : phụ cấp thợ lặn, chế độ thưởng an toàn hàng không...), tính theo số lao động thực tế được hưởng ứng với từng chế độ.

Vbs : Quỹ tiền lương bổ sung, chỉ áp với các doanh nghiệp được giao đơn giá tiền lương theo đơn vị sản phẩm. Quỹ tiền lương bổ sung trả cho thời gian thực tế không tham gia sản xuất được hưởng lương theo chế độ quy định của số công nhân viên trong doanh nghiệp, mà khi xây dựng định mưc lao dộng không tính đến, bao gồm : quỹ tiền lương nghỉ phép năm, nghỉ việc riêng, nghỉ lễ tết, nghỉ theo chế đọ lao động nữ, hội họp, học tập... theo quy định của Bộ luật Lao động

Vtg : Quỹ tiền lương làm thêm giờ được tính theo số giờ thực tế làm thêm nhưng không vượt quá quy định của Bộ Luật lao động.

- Khi quyết toán quỹ tiền lương thực hiện theo đơn giá được giao, nếu tiền lương thực hiện bình quân của người lao động (tính theo số lao động định mức) trong doanh nghiệp cao hơn 2 lần mức lương bình quân chung do Bộ LĐTBXH thông báo thì doanh nghiệp chỉ được quyết toán tổng quỹ tiền lương thực hiện ững với mức tiền lương bình quân của lao động (tính theo số lao động định mức) trong doanh nghiệp bằng hai lần mức lương bình quân được thông báo.

- Các doanh nghiệp chưa xây dựng định mức lao động và chưa có đơn giá tiền lương được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt thì quỹ tiền lương thực hiện được xác định theo số lao động thực tế bình quân sử dụng nhân với hệ số mức lương bình quân của doanh nghiệp do cơ quan có thẩm quyền giao đơn giá quyết định với mức lương tối thiểu chung do Chính phủ quy định (tại thời điểm thực hiện từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 là 210.000đ/tháng).

Tổng quỹ tiền lương thực hiện được xác định nói trên là chi phí hợp lệ trong giá thành hoặc phí lưu thông, đồng thời làm căn cứ để xác định lợi tức chịu thuế của doanh nghiệp.

Giao đơn giá tiền lương và quy chế phân phối, trả lương trong doanh nghiệp.

* Giao đơn giá tiền lương trong doanh nghiệp.

Căn cứ vào đơn giá tiền lương do cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, trên cơ sở cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, sau khi trao đổi ý kiến với ban chấp hành Công Đoàn cùng cấp, Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc các doanh nghiệp (đối với doanh nghiệp không có Hội đồng quản trị), xem xét và giao đơn giá tiền lương cho các đơn vị thành viên (hạch toán độc lập hoặc phụ thuộc).

Việc giao đơn giá tiền lương cần chú ý một số nội dung sau:

- Đơn giá tiền lương được giao phải gắn với chỉ tiêu kế hoạch sản xuất, kinh doanh có hiệu quả nhất;

- Hệ số điều chỉnh tăng thêm để tính đơn giá tiền lương cho từng đơn vị thành viên có thể khác nhau tuỳ vào hiệu quả sản xuất, kinh doanh nhưng không vượt quá hệ số điều chỉnh tăng thêm tối đa là 1,5 lần so với mức tối thiểu theo quy định tại mục III Thông tư 13/LĐTBXH - TT ngày 10 tháng 4 năm 1997.

- Được trích lập quỹ lương dự phòng tối đa là 7% tổng quỹ tiền lương kế hoạch (Vkh) để xây dựng đơn giá tiền lương được giao nhằm điều chỉnh và khuyến khích các đơn vị thành viên hoàn thành kế hoạch sản xuất, kinh doanh của cả doanh nghiệp. Quỹ dự phòng này phải được phân bổ hết trước khi quyết toán tài chính năm:

- Sau khi quyết toán tài chính, nếu quỹ tiền lương thực hiện theo đơn giá được giao thì phần chênh lệch được trích lập quỹ dự phòng cho năm sau nhằm ổn định thu nhập của người lao động trong trường hợp sản xuất, kinh doanh giảm do những nguyên nhân bất khả kháng. Mức quỹ dự phòng do Giám đốc thoả thuận với ban chấp hành công đoàn cùng cấp quyết định và không được sử dụng vào mục đích khác;

- Việc giao đơn giá và quỹ tiền lương kế hoạch cho các đơn vị thành viên khi tổng hợp lại không vượt quá đơn giá và quỹ tiền lương kế hoạch do cấp có thẩm quyền phê duyệt.

* Quy chế phân phối và trả lương trong các đơn vị thành viên:

- Căn cứ vào đơn giá tiền lương được giao, các đơn vị thành viên có toàn quyền phân phối quĩ tiền lương và trả lương gắn với năng xuất, chất lượng và hiệu quả sản xuất, kinh doanh cho từng đơn vị, bộ phận và cá nhân người lao động thuộc quền quản lý trên cơ sở quy chế phân phối, trả lương.

Bản quy chế phân phối, trả lương cho đơn vị thành viên phải được tổ chức công đoàn cùng cấp thoả thuận trước khi ban hành và phổ biến đến từng người lao động. Sau đó đăng ký với Sở Lao động-Thương Binh và xã hội địa phương (nếu doanh nghiệp thuộc địa phương quản lý) hoặc với cơ quan giao đơn giá tiền lương (nếu doanh nghiệp thuộc Trung ương quản lý).

- Việc quy định trả lương cho từng bộ phận, cá nhân người lao động theo qui chế chủ yếu phụ thuộc vào năng suất, chất lượng, hiệu quả công tác, giá trị cống hiến của từng bộ phận, cá nhân người lao động, không phân phối bình quân. Đối với lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, giỏi, giữ vai trò đóng góp quan trọng cho việc hoàn thành nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh của đơn vị thì mức tiền lương và thu nhập phải được trả thoả đáng. Đối với lao động làm công tác chuyên môn, nghiệp vụ, phục vụ giản đơn, phổ biến thì mức lương trả cần cân đối với mức lương của lao động trên cùng địa bàn, không tạo ra sự chênh lệch thu nhập quá bất hợp lý, gây mất cân bằng xã hội. Chênh lệch về tiền lương và thu nhập giữa lao động phục vụ, giản đơn với lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, giỏi trong nội bộ đơn vị do đơn vị xem xét qui định cho phù hợp, bảo đảm chống phân phối bình quân.

Tóm lại, cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập trong các doanh nghiệp nhà nước được thể hiện trên những điểm sau:

- Mức tiền lương tối thiểu, hệ thống thang, bảng lương, các chế độ phụ cấp lương do Nhà nước ban hành làm căn cứ để thực hiện các vấn đề:

+ là thang giá trị để tính toán đơn giá tiền lương của doanh nghiệp

+ là căn cứ tính toán thếu thu nhập doanh nghiệp

+ là cơ sở để thực hiện các chế độ BHXH, BHYT

- Về cơ chế tiền lương:

+ Nhà nước xác định đơn giá tiền lương của doanh nghiệp ở đầu vào trên cơ sở định mức lao động trung bình tiên tiến do doanh nghiệp xây dựng và các thông số tiền lương do Nhà nước qui định

+ Bảo đảm quan hệ tiền lương hợp lý giữa các doanh nghiệp, tiền lương thực hiện bình quân của các doanh nghiệp cao nhất không quá 3 lần tiền lương bình quân chung của các doanh nghiệp được giao đơn giá tiền lương.

+ Căn cứ đơn giá tiền lương được giao và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, Giám đốc được toàn quyền phân phối quỹ tiền lương và trả lương cho người lao động. Giám đốc xây dựng quy chế trả lương, trả thưởng cho người lao động trong doanh nghiệp trên cơ sở nguyên tắc phân phối theo lao động, gắn tiền lương, tiền thưởng với năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc của từng người, khuyến khích những người có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, tay nghề giỏi.

0