25/05/2018, 14:26

Quách Tấn

(1910-1992), tự Đăng Đạo , hiệu Trường Xuyên , là một nhà thơ Việt Nam. Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ởBình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, nghĩa là Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn . ...

 (1910-1992), tự Đăng Đạo, hiệu Trường Xuyên, là một nhà thơ Việt Nam. Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ởBình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, nghĩa là Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn.

Nhà thơ, nhà văn, nhà nghiên cứu, dịch giả

, ngoài tên hiệu hiệu Trường Xuyên, ông còn có các tiểu hiệu là Định Phong, Cổ Bàn Nhân, Thi Nại Thị, Lão giữ vườn....

Ông Sinh ngày 23 tháng 11 năm Kỷ Dậu (tức 4 tháng 1 năm 1910, nhưng giấy khai sinh thì ghi 01 tháng 1 năm 1910) tại thôn Truờng Định, huyện Bình Khê (nay là xã Bình Hòa, huyện Tây Sơn) tỉnh Bình Định.

Tổ tiên ông vốn là người Trung Quốc sang Việt Nam. Cha ông là Quách Phương Xuân, thông chữ Pháp, thân mẫu là Trần Thị Hào giỏi chữ Hán. Anh em gồm 10 người nhưng chỉ còn lại 3 là , Quách Tạo và Quách Thị Mộng Lan.

Lúc nhỏ học chữ Hán, đến 12 tuổi mới bắt đầu học Quốc ngữ và Pháp ngữ. Ông học tại trường Pháp Việt Quy Nhơn (nay là Quốc học Quy Nhơn), đậu cao đẳng tiểu học (primaire Supérieur) năm1929.

Sau đây là quá trình hoạt động của ông:

- 1930, làm phán sự Tòa sứ tại Tòa khâm sứ Huế, rồi đổi lên Tòa sứ Đồng Nai Thượng ở Đà Lạt.

- 1935, về làm việc tại Tòa sứ Nha Trang.

- 1945, tản cư về Bình Định tham gia chống Pháp, làm thủ quỹ cho Ủy ban ủng hộ kháng chiến và Mặt trận liên hiệp quốc dân huyện Bình Khê (1945-1949).

- 1949, mở Trường trung học tư thục Mai Xuân Thưởng tại thôn An Chánh huyện Bình Khê (1949-1951).

- 1951, được trưng dụng dạy Trường trung học An Nhơn rồi Trường trung học Bình Khê (1951-1953).

- 1954, hồi cư về Nha Trang được tái bổ vào ngạch thư ký hành chánh.

- 1955, ông Đã làm tại tòa hành chánh Quy Nhơn cho đến 1957. Tiếp theo, ông giữ chức Phó tỉnh trưởng tỉnh Bình Định. Nhờ cương vị này, đã can thiệp với chính quyền địa phương, chọn được một vùng đất địa thế đẹp tại Ghềnh Ráng (Quy Nhơn), rồi chuyển hài cốt người bạn tri âm là Hàn Mặc Tử từ nghĩa trang của nhà thương phung Quy Hòa về an táng tại đây. Ít lâu sau đổi về Sở Du lịch Huế(1957-1958), Ty Kiến thiết Nha Trang (1958-1963) rồi chuyển về Tòa hành chánh Nha Trang (1963-1965) giữ chức Phó tỉnh trưởng tỉnh Khánh Hòa.

- 1965, ông nghỉ hưu tại nhà số 12 đường Bến Chợ Nha Trang (gần chợ Đầm), tiếp tục viết văn làm thơ.

- 1987, ông lâm cảnh mù lòa rồi mất ngày 21 tháng 12 năm 1992.

lập gia đình năm 1929. Vợ ông là bà Nguyễn Thị Nhiếp, hiệu Thanh Tâm, sinh trưởng tại Phú Phong, Bình Khê, Bình Định.

biết làm thơ, viết văn sớm. Năm 1933, ông đã có thơ đăng trên An Nam tạp chí, Phụ nữ tân văn, Tiếng dân và Tiểu thuyết thứ bảy. Ông từng được thi sĩ Tản Đà khen khi bình bài Đến thăm vườn cũ cảm tác của ông. Tản Đà viết: Nói về bên tình thì rất lâm ly mà nói về bên tài cũng đến thế là hay. Sau đây là những tác phẩm của ông:

Tập thơ

  • Một tấm lòng (1939): gồm hai phần chính và một phần phụ lục, có lời “Tựa” của Tản Đà, lời “Bạt” của Hàn Mặc Tử.
  • Mùa cổ điển (1941).
  • Ðọng bóng chiều (1965).
  • Mộng Ngân sơn (1967).
  • Giọt trăng (1973).
  • Mây cổ tháp (viết 1973, chưa xuất bản).
  • Giàn hoa lý (viết từ 1976 đến 1979, chưa xuất bản).
  • Trường Xuyên thi thoại: Những bài thơ kỷ niệm (chưa có thông tin).

Địa phương chí

  • Bước lãng du (1965): giới thiệu danh lam, thắng tích từ Huế đến Ninh Thuận.
  • Non nước Bình Định (1968).
  • Xứ Trầm hương (1969): viết về Nha Trang.
  • Bóng ngày qua (hồi kí).

Hồi ký & hồi ký danh nhân

  • Cảnh cũ còn đây (1958-1963, chưa xuất bản).
  • Hồi ký (Nxb Hội nhà văn, 2005).
  • Đôi nét về Hàn Mặc Tử (Sài Gòn 1967, in lại trong Hàn Mặc Tử - hôm qua & hôm nay, Nxb Hội nhà văn, 1966).
  • Đôi nét về Đào Tấn (chưa xuất bản).
  • Đời Bích Khê (1971).

Thơ dịch

  • Lữ Đường Thi: Thơ Thái Thuận, do sưu tầm, khảo cứu, dịch nghĩa, dịch thơ - NXB Văn Học in năm 2001.
  • Tố Như thi: dịch thơ chữ Hán của Nguyễn Du (1973. Nxb An Tiêm tái bản, Paris, 1995).

Các thể loại khác

  • Trăng ma lầu Việt (1941. 2003 tái bản): viết phỏng theo Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ đời Hậu Lê.
  • Những tấm gương xưa (không rõ năm xuất bản, thể loại sách học làm người).
  • Thi pháp thơ Đường (1998).
  • Nhà Tây Sơn (1998, biên khảo).

Và hơn ngàn trang bản thảo văn, hơn mười tập thơ chưa xuất bản.

Đối với thơ, tôi () không tách biệt "mới" và "cũ". Tôi lựa thể Đường luật vì thấy thích hợp với tâm hồn mình. Vì đã lựa được con đường đi nên từ 1932 đến 1941, mặc dù phong trào Thơ Mới sôi nổi, tôi vẫn giữ thể Đường luật.

Nói về phong cách sống của , Nguyễn Vỹ viết:

Tôi biết anh lúc anh còn học ở   Qui Nhơn. Sau, anh thi đậu “diplôme”, được bổ đi làm việc tại các Tòa Sứ   miền Trung. Không có cái gì tiết lộ anh là một thi sĩ...Anh thuộc về hạng đàn ông đạo đức, giản dị, không se sua, không bần tiện, không làm phiền ai, một người công dân có ý thức trách nhiệm, một người bạn hiền lành, vui vẻ, khả ái, một người cha rất tốt trong gia đình, một người chồng rất thủy chung…

Về sự nghiệp văn chương, tuy viết nhiều thể loại, nhưng người ta chú ý đến ông là nhờ thơ, nhất là hai tập thơ đầu. Đặng Thị Hảo cho biết:

Tập thơ "Một tấm lòng" vừa ra đời đã gây nên ai luồng dư luận trái ngược. Các nhà thơ cổ hoan nghênh; những người hâm mộ “thơ mới” lại làm ngơ, như ở báo Phong Hóa của bút nhóm   Tự Lực văn đoàn   chỉ giới thiệu văn tắt mà không bình luận gì...

Đến hai năm sau (1941), khi thi phẩm Mùa cổ điển ra đời, thì giới yêu thơ mới bắt đầu chú ý đến thơ ông nhiều hơn. Tháng 10 năm ấy, được Hoài Thanh-Hoài Chân giới thiệu trong Thi nhân Việt Nam:

là một người thanh niên có Tây học; người thanh niên ấy hồi 1939 đã xuất bản một tập thơ cũ (Một tấm lòng) được   Tản Đà   để ngang với thơ Yên Đỗ (Nguyễn Khuyến), thơ   Hồ Xuân Hương...Đêm đã khuya, tôi ngồi một mình xem thơ ...Theo gót nhà thơ, tôi đi dần vào một thế giới huyền diệu. Ở đây người ta nói rất khẽ, bước rất êm... Tình cảnh ở đây đã biến thành một thứ hương mầu nhiệm...

Nhưng Vũ Ngọc Phan lại có ý kiến trái ngược:

Đọc thơ , người ta thấy ông chú trọng vào sự gọt giũa nhiều quá, ông cân nhắc từng chữ, ông lựa từng câu, sự chú trọng ấy ông để người ta thấy rõ quá, nên sự thành thật bị giảm đi nhiều...Thơ điêu luyện thì có điêu luyện, như thành thực thì không. 

Những năm gần đây, tài thơ của ông được đánh giá như sau. Trích trong Từ điển văn học (bộ mới):

Về hình thức thể loại cũng như về nội dung, "Một tấm lòng" không có gì mới mẻ. Hai năm sau, cho xuất bản tiếp "Mùa cổ điển" (1941). Đây là tác phẩm tâm đắc nhất đồng thời cũng là đỉnh cao nghệ thuật của ông. Ở "Mùa cổ điển", ngòi bút nghệ thuật của thi sĩ tỏ ra điêu luyện hơn, cảm xúc cũng sâu sắc hơn tập thơ trước...Song, nếu ở "Một tấm lòng", người đọc còn tìm thấy cái nhìn trong trẻo của nhà thơ trước con người và thiên nhiên; thì đến Mùa cổ điển, mỗi bài thơ đều chất nặng ưu tư, ẩn giấu một nỗi buồn sâu xa. Đó cũng là sự phản ảnh tâm trạng chung của lớp thanh niên trí thức Việt Nam trước không khí nặng nề của cuộc đại chiến.

Trong Từ điển Tác gia Văn hóa Việt Nam có đoạn:

là một nhà thơ chuyên về Đường luật. Có lẽ từ đầu thế kỷ đến nay, không một nhà thơ nào chuyên chú và có công với thơ luật bằng ông; vì ông đã sáng tác trên cả ngàn bài   thơ Đường, kể cả thơ dịch. Đó là cống hiến lớn của ông đối với lịch sử thơ ca Việt Nam...Thơ (dù là thơ Đường) vẫn có cảm xúc mới, ý lạ mà nồng nàn khiến người đọc rung động, bồi hồi theo nỗi lòng cô đơn của tác giả, hoặc đìu hiu như bên sông lạnh mà đó cũng là tiếng hư không từ cõi âm vọng về.

Bờ nghiêng lau lách bóng sương lồng,

Trăng muộn màng canh cánh mặt sông.

Đời nữa khói mây chìm bóng mộng,

Gọi đò một tiếng lạnh hư không!

0