Quá trình hình thành và nguyên nhân thực hiện FDI
Đầu tư nước ngoài có thể nói là xuất hiện từ thời tiền tư bản. khi đó các công ty của Anh, Pháp, Hà Lan… đầu tư vào châu Á để khai thác tài nguyên thiên nhiên cho các công ty của chính quốc. đến thể kỳ 19 qúa trình tích tụ tập trung tư bản phát triển ...
Đầu tư nước ngoài có thể nói là xuất hiện từ thời tiền tư bản. khi đó các công ty của Anh, Pháp, Hà Lan… đầu tư vào châu Á để khai thác tài nguyên thiên nhiên cho các công ty của chính quốc. đến thể kỳ 19 qúa trình tích tụ tập trung tư bản phát triển nhanh chóng, đó là tiền đề cho xuất khẩu tư bản của các nước lớn. Năm 1913 đầu tư gia nước ngoài của Anh là 3,5 tỷ, Mỹ 13 tỷ chủ yếu để khai thác tài nguyên thiên nhiên. có thể nói tư bản thừa chính là tiền đề cho đầu tư ra nước ngoài, xong thực chất đó là hiện tượng kinh tế mang tính tất yếu, là kết quả mà quá trình tích tụ tập trung tư bản mang lại
Khi nền công nghiệp phát triển việc đầu tư trong nước không còn mang lại nhiều lợi nhuận vì lợi thế so sánh không có nữa. để tăng lợi nhuận các nước tư bản đầu tư vào các nước lạc hậu hơn vì yếu tố sản xuất rẻ nên lợi nhuận cao.
Mặt khác các công ty tư bản lớn cần nguyên liệu và tài nguyên thiên nhiên khác để đảm bảo nguồn cung cấp ổn định và đáng tin cậy cho sản xuất. Điều đó giúp cho họ vừa có lợi nhuận cao vừa giữ được vị trí độc quyền. Đồng thời các nước tiếp nhận đầu tư cho rằng mượn tư bản để phát triển còn hơn tự thần vận động hay đi vay để mua lại công nghệ của các nước phát triển và các nước phát triển muốn thu hút đầu tư vào nước mình thi họ phải tuần thu pháp luật, sự quản lí của mình và những thông lệ quốc tế. Tuỳ nhiên các nước tư bản phát triển thường chọn những nước có điều kiện tương đối phát triển hơn để đầu tư. Bởi muốn đầu tư vào nước nào đó phải có điều kiện như cơ sở hạ tầng đủ để đảm bảo cho các hoạt động sản xuất và một số ngành phụ trợ để phục vụ cho sản xuất đời sống. Còn những nước lạc hậu thì khi đầu tư vào đó họ phải dành một phần cho xây dựng cơ sở hạ tầng và các ngành dịch vụ để phục vụ yêu cầu sản xuất và đời sống. Vì vậy mà vào đầu thế kỷ 19 đầu tư vào các nước phát triển tăng nhanh.
Khi nên kinh tế tư bản phát triển, nền kinh tế của nó phát triển có tình chu kỳ, sau mỗi chu kỳ kinh tế nền kinh tế các nước công nghiệp lại dưới vào khung hoảng vượt qua vào giai đoạn này và tiếp tục phát triển thì họ phải đổi mới tư bản cố định. đầu tư ra nước ngoài là giải pháp tốt nhất về các nước công nghiệp phát triển có thể chuyển may móc và thiết bị cần thay thế sang các nước kém phát triển và thu hối chi phí không nhỏ bù đăp cho mua sắm may móc mới. Ngày này khi khoa học phát triển mạnh, chu kỳ kinh tế ngày càng ngắn thì yếu cầu đổi mới là cấp bạch vì thế các nước phát triển phải luôn tìm cho mình một thị trường để tiêu thụ công nghệ loại hai đó. Do đó đầu tư ra nước ngoài là biện pháp tốt nhất.
Ngày này các thuyết kinh tế đều chỉ ra rằng đầu tư ra nước ngoài thì cả hai nước đều có lợi. Mặt khác chính sách của các nước đều có nhữn thay đổi, các nước công nghiệp có xu hướng tăng thuế VAT, thuế thu nhập…., các nước đang phát triển dùng các hàng rào bảo hộ chặt để bảo vệ hàng trong nước, đồng thời để tranh thu nguồn vốn nước ngoài, họ chủ trương giảm thuế và dành những ưu đãi lớn cho những nhà đầu tư nước ngoài. do vậy biện pháp đầu tư ra nước ngoài là biện pháp hay nhất để các công ty tranh được các hàng rào bảo hộ và thuế.
Một lí do không thể không kể đến là việc sau khi dành được độc lập các quốc gia đều tiến hành các bước phát triển kinh tế theo hướng mở cửa tăng cưởng quan hệ quốc tế nên có nhu cầu lớn về hoạt động đầu tư để khôi phục phát triển kinh tế để đất nước thoát khỏi nghèo lạc hậu. đây là cơ hội để các nước phát triển và chiếm lấy các thị trường của các nước đang phát triển. đầu tư nước ngoài là con đường ngăn nhất để được các nước đang phát triển chấp thuận.