Quá trình dân số
Sinh: phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như hôn nhân, gia đình, lối sống và cơ cấu gia đình, chức năng gia đình. Sinh nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động của gia đình và duy trì nòi giống. Khả năng sinh tối đa, tức là mức sinh có thể được của ...
- Sinh: phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như hôn nhân, gia đình, lối sống và cơ cấu gia đình, chức năng gia đình. Sinh nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động của gia đình và duy trì nòi giống. Khả năng sinh tối đa, tức là mức sinh có thể được của phụ nữ gọi là mức sinh tự nhiên (còn gọi là tỉ lệ mắn đẻ) thường cao hơn mức sinh thực tế (vì còn có sinh con ngoài giá thú, có khi cao hơn đến vài chục phần trăm).
- Tử: có thể do nhiều nguyên nhân. Nguyên nhân bên trong là yếu tố sinh học của con người, quá trình lão hóa dẫn đến cái chết. Nguyên nhân bên ngoài là các yếu tố tác động của môi trường tự nhiên và xã hội: bệnh tật, tai nạn ...các nguyên nhân này luôn có quan hệ tương hỗ. Tỉ lệ chết thường cao ở trẻ em và người già.
- Hôn nhân có những đặc điểm về số lượng như tỉ lệ người xây dựng hoặc không xây dựng gia đình trong mỗi thế hệ, tuổi kết hôn đầu tiên, khoảng thời gian giữa ly hôn, gián hôn và tái hôn.
- Các đặc điểm này còn phụ thuộc vào truyền thống, luật pháp của các quốc gia. Ví dụ tuổi kết hôn có thể thay đổi tùy theo nước; phổ biến trên thế giới là 20-21.
- Xuất và nhập cư (di cư nói chung) là hiện tượng xã hội bình thường do những nhu cầu khác nhau của gia đình, xã hội.
Các chỉ báo
Tỉ suất sinh thô hay mức sinh (Crude Birth Rate)
Theo tổ chức Y tế thế giới nếu:
- CBR ≤ 20‰: mức sinh thấp
- 20‰ < CBR ≤ 30‰: mức sinh trung bình
- 30‰ < CBR ≤ 40‰ : mức sinh cao
- 40‰ < CBR: mức sinh rất cao
Tỉ suất sinh đặc trưng hay tỉ suất sinh chung (General Fertility Rate)
Có 2 quan điểm về độ tuổi sinh của phụ nữ:
Từ 15-49 tuổi
Từ 15-44 tuổi (thường được sử dụng ở các nước có mức sinh thấp).
Tỉ suất sinh theo lứa tuổi (Age Specific Birth Rate)
Tỉ suất này chính xác hơn các tỉ suất kể trên. Tỉ suất sinh theo lứa tuổi được tính theo công thức sau:
Bảng 1. Tỉ suất sinh theo lứa tuổi và một số thông số khác ở Trung Quốc
TuổiNăm | 15-19 | 20-24 | 25-29 | 30-34 | 35-39 | 40-44 | 45-49 | (1) | (2) | (3) |
1990 | 21,5 | 197,2 | 150,4 | 52,8 | 18,3 | 5,4 | 1,6 | 2,20 | 1,05 | 1,09 |
1995 | 14,0 | 188,4 | 113,8 | 32,8 | 7,1 | 2,0 | 0,8 | 1,76 | 0,84 | 1,09 |
2000 | 9,4 | 10,3 | 132,1 | 135,1 | 55,5 | 19,4 | 2,7 | 1,82 | 0,87 | 1,09 |
2005 | 9,5 | 16,1 | 130,7 | 132,3 | 54,1 | 18,7 | 2,7 | 1,82 | 0,87 | 1,08 |
2010 | 9,2 | 21,8 | 129,6 | 128,7 | 52,7 | 18,2 | 2,6 | 1,82 | 0,87 | 1,07 |
Nguồn: U.S. Bureau of the Census, International Data Base.
(1): Tỉ suất sinh tổng cộng (2): Tỉ suất tái sinh thô
(3): tỉ lệ sinh bé trai và bé gai
Bảng 2. Tỉ suất sinh theo lứa tuổi và một số thông số khác ở Việt Nam
TuổiNăm | 15-19 | 20-24 | 25-29 | 30-34 | 35-39 | 40-44 | 45-49 | (1) | (2) | (3) |
1990 | 38,2 | 199,0 | 207,0 | 142,8 | 88,4 | 44,6 | 10,1 | 3,65 | 1,77 | 1,06 |
1995 | 34,4 | 160,7 | 172,5 | 106,4 | 55,4 | 28,8 | 2,0 | 2,80 | 1,35 | 1,07 |
2000 | 28,4 | 136,6 | 159,0 | 103,8 | 51,1 | 24,9 | 2,0 | 2,53 | 1,22 | 1,07 |
2005 | 23,6 | 117,5 | 148,4 | 101,8 | 47,7 | 21,8 | 2,0 | 2,31 | 1,12 | 1,07 |
2010 | 18,9 | 98,5 | 137,8 | 99,8 | 44,3 | 18,7 | 2,0 | 2,10 | 1,02 | 1,06 |
Nguồn: U.S. Bureau of the Census, International Data Base.
(1): Tỉ suất sinh tổng cộng(2): Tỉ suất tái sinh thô
(3): tỉ lệ sinh bé trai và bé gái
Lứa tuổi nào có tỉ suất sinh theo lứa tuổi cao, thì lứa tuổi đó có khả năng sinh cao. Tuy nhiên tỉ suất sinh thô còn phụ thuộc số lượng phụ nữ ở độ tuổi có khả năng sinh cao.
Tỉ suất sinh tổng cộng (Total Fertility Rate)
Số sinh ra trung bình của một người phụ nữ trong suốt cuộc đời và thường được gọi là tổng tỉ suất sinh. Cách tính như sau:
Trung bình số con của một phụ nữ đến cuối đời chính là tổng số con sống sót sau khi hết sinh.
Tỉ suất tái sinh thô (Gross Reproduction Rate)
Biểu thị con số trung bình sinh ra gái trong suốt cuộc đời của phụ nữ.
Việc phân tích các tỉ suất sinh rất cần cho công tác đánh giá chính xác tình hình dân số và là cơ sở cho các dự báo dân số.
Các nhân tố ảnh hưởng tới mức sinh
- Tình hình hôn nhân: Tuổi kết hôn là nhân tố quan trọng hàng đầu. Trước đây, tuổi kết hôn thường rất trẻ (dưới 14 tuổi). Ngày 07/11/1962, Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua quy định về việc kết hôn. Theo đó tuổi được kết hôn tối thiểu là không dưới 15. Ở Việt Nam, lứa tuổi được kết hôn là nam từ 20 và nữ từ 18.
- Nhân tố tâm lý xã hội
- Các điều kiện chính trị xã hội (chiến tranh thế giới làm vợ xa chồng, điều kiện khắc nghiệt cũng làm giảm tỉ suất sinh).
- Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc có một quan niệm riêng về hôn nhân và gia đình. Ở nhiều nước, quan niệm "con đàn cháu đống”, “trời sinh voi trời sinh cỏ” … còn rất phổ biến.
- Trong xã hội nông nghiệp, con cái là nguồn lao động, là chỗ dựa về tinh thần và vật chất cho bố mẹ về già. Vì vậy, mức sinh rất cao.
- Điều kiện sống: mức sống và sức khỏe ảnh hưởng rất lớn tới khả năng sinh của từng cá nhân và cộng đồng. Tình trạng bệnh tật nói chung ảnh hưởng không chỉ tới việc sinh mà cả thể trạng của đứa trẻ sinh ra. Mức sống và sức khỏe còn tác động tới ý thức, dân trí, điều kiện nuôi dưỡng trẻ sơ sinh và sức khỏe bà mẹ sau khi sinh.
- Trình độ dân trí.
Các chỉ báo
Tỉ suất tử vong thô hay mức chết (Crude Death Rate):
Người ta quy ước:
CDR < 11‰: thấp
11‰ ≤ CDR < 15‰ : trung bình
15‰ ≤ CDR < 25‰ : cao
25‰ ≤ CDR: rất cao
Tỉ suất tử vong trẻ em hay tỉ suất chết chu sinh (Infant Mortality Rate)
Phản ánh đầy đủ trình độ nuôi dưỡng và tình hình sức khỏe chung của trẻ em ở một lãnh thổ. Có nhiều loại tỉ suất tử vong trẻ em (tử vong trước hoặc trong khi sinh, tử vong trẻ em ở các độ tuổi khác nhau). Phổ biến nhất là tỉ suất tử vong của trẻ em dưới 1 tuổi.
Tuổi thọ trung bình (hay triển vọng sống)
Tuổi thọ trung bình thường được ước lượng. Tuổi thọ thay đổi rõ rệt qua các thời kỳ với xu hướng ngày càng tăng. Thời kỳ nguyên thủy, tuổi thọ của một người chỉ khoảng 18-20 năm, thời kỳ phong kiến ở Châu Âu là 21 năm, thời kỳ chủ nghĩa tư bản là 34 năm và hiện nay là 63,7 đối với nam và 67,8 đối với nữ (thống kê năm 1995).
Tuổi thọ trung bình giữa giới nam và giới nữ, giữa các quốc gia thì khác nhau. Trừ một vài nước, chỉ số này ở nữ giới thường cao hơn ở nam giới 3-4 tuổi.
Tuổi thọ trung bình ở các nước phát triển cao hơn ở các nước đang phát triển (71,2 và 78,6 tuổi so với 62,4 và 65,3, năm 1995). Những nước có tuổi thọ trung bình cao nhất trên thế giới là những nước thuộc Bắc Âu, Bắc Mỹ (74/80) và thấp nhất thuộc về khu vực Đông Phi (49/51), Tây Phi (50/53).
Các nhân tố ảnh hưởng tới mức tử vong
Kết cấu dân số theo độ tuổi; hoàn cảnh chính trị, kinh tế-xã hội .v.v… ảnh hưởng tới mức tử vong. Có thể nêu một số nhân tố chủ yếu sau:
Chiến tranh
Chiến tranh là nguyên nhân trực tiếp gây chết người hàng loạt trong một khoảng thời gian ngắn. Chỉ tính riêng 2 cuộc chiến tranh thế giới đã cướp đi sinh mạng của khoảng 66 triệu người (gần 16 triệu người trong chiến tranh thế giới thứ nhất và 50 triệu trong chiến tranh thế giới thứ 2).
Chiến tranh cũng là nguyên nhân gián tiếp làm tăng tỉ suất tử vong, bởi vì chiến tranh còn gây ra đói kém, bệnh tật.
Đói kém và dịch bệnh
Làm tăng mức tử vong một cách đột ngột trong những thời điểm nhất định. Phần lớn người dân lao động, nhất là ở các nước đang phát triển sống trong cảnh nghèo đói. Số người thiếu ăn trên thế giới tăng dần trong các năm qua 1950 (700 triệu người); 1975 (1.200 triệu người); 1980 (1.300 triệu người) ; chủ yếu tập trung ở các nước đang phát triển thuộc châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh, vì vậy làm tăng tỉ suất tử vong.
Trước đây, dịch bệnh là mối đe dọa thường xuyên của con người. Ngày nay, tiến bộ trong ngành y tế đã chặn đứng được các nạn dịch lớn, song ở tầm vi mô vẫn còn tác động nhất định đến tỉ suất tử vong.
Tai nạn
Cũng trực tiếp làm tăng tỉ suất tử vong ở nhiều khu vực trên thế giới. Ví dụ, chỉ riêng các tai nạn ôtô đã làm 250.000 người chết và hàng chục triệu người bị thương. Mưa, bão, các sự cố trong tự nhiên có thể làm gia tăng tỉ lệ người chết trong năm đó.
Tỉ suất gia tăng dân số tự nhiên (Rate of Natural Increase)
Tỉ suất gia tăng dân số trung bình hàng năm (Average Annual Growth Rate)
Sự thay đổi dân số trung bình hàng năm (thường căn cứ vào số dân ở giữa năm, ngày 01/7 hàng năm) được tính bằng công thức sau (P2: dân số ở năm sau, P1 là dân số ở năm trước).
AAGR thường được tính cách nhau một năm và được tính như sau:
Tương quan giữa số xuất cư và số nhập cư.
Tỉ suất nhập cư (Immigration rate)
Tỉ suất xuất cư (Emmigration rate)
Tỉ suất gia tăng thực tế (Rate of Real Increase)
Là tổng hợp gia tăng tự nhiên và gia tăng cơ học.