25/05/2018, 13:52

Quá tải dân số

hay Nạn nhân mãn là một trạng thái thống kê theo đó số lượng của một sinh vật vượt quá khả năng chống đỡ của môi trường sống của nó. Theo cách nói thông thường, thuật ngữ thường chỉ mối quan hệ giữa số lượng con người và môi trường, Trái Đất. không ...

hay Nạn nhân mãn là một trạng thái thống kê theo đó số lượng của một sinh vật vượt quá khả năng chống đỡ của môi trường sống của nó. Theo cách nói thông thường, thuật ngữ thường chỉ mối quan hệ giữa số lượng con người và môi trường, Trái Đất.

không chỉ phụ thuộc ở kích cỡ hay mật độ dân số, mà vào tỷ lệ của dân số với các nguồn tài nguyên có thể duy trì, vào các biện pháp sử dụng tài nguyên và sự phân bố do số lượng dân đó sử dụng. Nếu cho một môi trường có 10 người, nhưng chỉ có đủ nước và thức ăn cho 9, khi ấy trong một hệ kín nơi không có quan hệ thương mại, môi trường đó là quá tải dân số; nếu dân số là 100 nhưng có đủ thức ăn, chỗ ở và nước cho 200 người cho tương lai không giới hạn, thì khi đó không phải là quá tải dân số. có thể xuất hiện từ sự gia tăng sinh sản, một sự suy giảm tỷ lệ tử vì phát triển y tế, từ sự gia tăng nhập cư, hay từ một quần xã sinh vật không thể duy trì và sự cạn kiệt tài nguyên. Các khu vực dân cư rất rải rác cũng có thể gặp nạn nhân mãn, khi khu vực đó có thể có khả năng thấp hay không có khả năng duy trì cuộc sống loài người (ví dụ vùng trung tâm Sa mạc Sahara hay Nam Cực).

Các nguồn tài nguyên được xem xét khi đánh giá liệu một hệ sinh thái có là quá tải dân số hay không gồm nước sạch, không khí, thức ăn, nơi ở, trạng thái ấm và các nguồn tài nguyên khác cần thiết để duy trì sự sống. Nếu chất lượng cuộc sống con người được xem xét, có thể cân nhắc cả những nguồn tài nguyên khác như chăm sóc y tế, giáo dục, xử lý nước thải và rác thải thích hợp. Các địa điểm quá tải dân số gây áp lực trên các nguồn tài nguyên duy trì sự sống, dẫn tới sự giảm sút chất lượng cuộc sống.

Steve Jones, lãnh đạo khoa sinh vật học tại Đại học London, đã nói, "Con người đang đông gấp 10.000 lần theo con số đáng nhẽ phải có, theo các quy luật của vương quốc sinh vật, và may mắn là chúng ta có nông nghiệp. Không có nông nghiệp, dân số thế giới có lẽ hiện chỉ chưa tới nửa triệu người."

Một số quốc gia đã tìm cách làm gia tăng khả năng chống đỡ của mình bằng cách sử dụng các kỹ thuật như nông nghiệp, khử muối, và hạt nhân hiện đại.

Lịch sử

Dữ liệu từ bài 'Dân số thế giới' Dữ liệu từ bài 'Dân số thế giới'

Để thể hiện rõ hơn chủ đề quá tải dân số, có thể là có ích khi xem xét dân số thế giới hiện nay trong bối cảnh dân số loài người từ buổi đầu văn minh tới hiện tại. Văn minh bắt đầu từ khoảng 10,000 năm trước, trùng với:

  • sự rút lui cuối cùng của băng hà sau sự kết thúc của giai đoạn băng hà gần nhất và
  • sự khởi đầu của "Cách mạng Đồ đá mới" khi có một sự thay đổi trong hoạt động của con người từ “săn bắn hái lượm” về phía hoạt động nông nghiệp ban sơ.
  • Ở buổi đầu nông nghiệp, khoảng năm 8,000 trước Công Nguyên, dân số thế giới xấp xỉ 5 triệu người.
  • Sự thay đổi nhỏ về dân số trong hàng nghìn năm chấm dứt vào khoảng năm 1,000 trước Công Nguyên.
  • Tăng trưởng vững chắc bắt đầu vào khoảng năm 1,000 trước công nguyên sau đó là ổn định (hay có thể tăng đỉnh ) khoảng năm 0., với 200 tới 300 triệu người.
  • Khuynh hướng cho 800 - 900 năm tiếp theo từ khoảng năm 800 sau Công Nguyên trở về sau là tăng chậm nhưng ổn định, dù có sự ngắt quãng bởi các bệnh dịch (đáng kể nhất là Tử thần Đen ở thế kỷ 14).
  • Tăng trưởng nhanh hơn từ khởi đầu cuộc Cách mạng Công nghiệp khoảng năm 1700. Ước tính khoảng 1 người năm 1804.
  • Hơn 6.7 tỷ Dân số thế giới tăng gấp 3 lần vào năm 2009 so với xấp xỉ 2.3 tỷ hay ít hơn năm 1939, dù có thiệt hại nhân mạng trong Thế chiến II (một ước tính ở mức cao khoảng 72 triệu người).
  • Tăng mạnh từ khoảng năm 1950 trùng với sự tăng vọt trong sản xuất thực phẩm nhờ việc công nghiệp hoá nông nghiệp (được gọi là cuộc Cách mạng Xanh). Dự báo dân số tiếp tục tăng đến 8.9 tỷ người, 9.2 billion , hay 9.5 tỷ hay thậm chí11 tỷ năm 2050.

Rõ ràng, các biểu đồ trên cho thấy một sự phát triển nghiêng âm bất thường. Trong trường hợp này nó có nghĩa sau nhiều nghìn năm ít thay đổi về dân số, lần đầu tiên trong lịch sử loài người, đã có một giai đoạn tăng dân số nhanh liên tục ở mức độ đặc biệt cao và chưa từng có.

Dự đoán cho năm 2050

Các báo cáo của Liên hiệp quốc, như World Population Prospects viết:

  • Dân số thế giới hiện tăng xấp xỉ 74 triệu người mỗi năm. Nếu tỷ suất sinh hiện nay tiếp diễn, năm 2050 tổng dân số thế giới sẽ là 11 tỷ người, với 169 triệu người tăng thêm mỗi năm. Tuy nhiên, tỷ suất sinh đã giảm trong nhiều thập kỷ, và các con số cập nhật của Liên hiệp quốc dự đoán dân số thế giới sẽ đạt 9.2 tỷ người khoảng năm 2050. Đây là con số trung bình với giả thiết mức giảm tỷ suất sinh từ 2.5 xuống còn 2.
  • Hầu như tất cả số tăng đều diễn ra tại các vùng kém phát triển, con số 5.3 tỷ người hiện đang sống tại các nước kém phát triển sẽ tăng thành 7.8 tỷ năm 2050. Trái lại, dân số tại những vùng phát triển hơn hầu như sẽ không thay đổi, ở mức 1.2 tỷ. Dân số thế giới dự đoán sẽ tăng 40% lên 9.1 tỷ người. Ngoại trừ dân số Mỹ dự đoán sẽ tăng 44% từ 305 triệu năm 2008 lên 439 năm 2050.
  • Giai đoạn 2000-2005, tỷ suất sinh trung bình của thế giới là 2.65 trẻ em trên mỗi phụ nữ, khoảng bằng nửa mức giai đoạn 1950-1955 (5 trẻ em trên mỗi phụ nữ). Ở mức trung bình, tỷ suất sinh của thế giới dự đoán sẽ giảm hơn nữa xuống 2.05 trẻ em trên mỗi phụ nữ.
  • Trong giai đoạn 2005-2050, chín quốc gia dự đoán sẽ chiếm một nửa số tăng dân số thế giới: Ấn Độ, Pakistan, Nigeria, Cộng hoà Dân chủ Congo, Bangladesh, Uganda, Hoa Kỳ, Ethiopia, và Trung Quốc, được liệt kê theo mức độ đóng góp vào tăng trưởng dân số.
  • Tuổi thọ khi sinh toàn cầu, được ước tính đã tăng từ 46 giai đoạn 1950-1955 tới 65 giai đoạn 2000-2005, và sẽ tiếp tục tăng để đạt 75 tuổi giai đoạn 2045-2050. Tại các vùng phát triển hơn, dự đoán mức tăng từ 75 tuổi hiện nay lên 82 tuổi ở giữa thế kỷ. Với các quốc gia kém phát triển, nơi tuổi thọ hiện tại chỉ dưới 50, tuổi thọ dự báo sẽ tăng lên 66 tuổi trong giai đoạn 2045-2050.
  • Dân số của 51 quốc gia hay khu vực, gồm Đức, Italia, Nhật Bản và hầu hết các quốc gia kế tục của Liên xô cũ, dự đoán vào năm 2050 sẽ thấp hơn mức năm 2005.
  • Trong giai đoạn 2005-2050, con số người di cư thực trên thế giới tới các vùng phát triển hơn dự đoán là 98 triệu người. Vì mức tử dự đoán sẽ cao hơn mức sinh tại các vùng phát triển ở mức 73 triệu người trong giai đoạn 2005-2050, gia tăng dân số tại các vùng này sẽ chủ yếu bởi di cư.
  • Năm 2000-2005, con số nhập cư thực tại 28 quốc gia hoặc đã giúp ngăn chặn suy giảm dân số hoặc ít nhất đã giúp tăng dân số tự nhiên (sinh trừ tử). Các quốc gia này gồm, Áo, Canada, Croatia, Đan Mạch, Đức, Italia, Bồ Đào Nha, Qatar, Singapore, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển, Các tiểu Vương quốc Ả Rập thống nhất và Anh Quốc.
  • Các tỷ lệ sinh hiện đang giảm ở mức độ thấp tại các nước đang phát triển, trong khi dân số thực tại nhiều nước phát triển sẽ giảm nếu không có nhập cư.
  • Tới năm 2050 (số trung bình), Ấn Độ sẽ có 1.7 tỷ người, Trung Quốc 1.4 tỷ, Hoa Kỳ 400 triệu, Indonesia 297 triệu, Pakistan 292 triệu, Nigeria 289 triệu, Bangladesh 254 triệu, Brazil 254 triệu, Cộng hoà Dân chủ Congo 187 triệu, Ethiopia 183 triệu, Philippines 141 triệu, Mexico 132 triệu, Ai Cập 121 triệu, Vietnam 120 triệu, Nga 108 triệu, Nhật Bản 103 triệu, Iran 100 triệu, Thổ Nhĩ Kỳ 99 triệu, Uganda 93 triệu, Tanzania 85 triệu, và Kenya 85 triệu

2050

  • Châu Phi - 1.9 tỷ
  • Châu Á - 5.2 tỷ
  • Châu Âu - 664 triệu
  • Mỹ La tinh & Caribbean - 769 triệu
  • Bắc Mỹ - 445 triệu

Di chuyển nhân khẩu

Các dự báo dân số thế giới của Liên hiệp quốc theo địa điểm.

Lý thuyết chuyển đổi dân số, tuy chưa được chứng minh để áp dụng cho tất cả các vùng trên thế giới, cho rằng, khi tiêu chuẩn sống và tuổi thọ tăng, kích thước gia đình và tỷ suất sinh giảm. Các yếu tố được chỉ ra gồm các yếu tố xã hội như tuổi kết hôn, sự gia tăng mong ước của nhiều phụ nữ về nghề nghiệp bên ngoài việc nuôi dạy con và công việc gia đình, và sự giảm nhu cầu trẻ em trong môi trường công nghiệp hoá. Yếu tố sau cùng này xuất phát từ thực tế rằng trẻ em đảm đương khá nhiều công việc trong các xã hội nông nghiệp ở tầm mức nhỏ, và làm việc ít hơn trong những xã hội công nghiệp; điều này đã được nêu ra để giải thích sự sụt giảm tỷ suất sinh tại các vùng công nghiệp.

Một phiên bản khác của chuyển đổi dân số là của Virginia Abernethy trong Chính trị dân số, khi bà cho rằng chuyển đổi dân số diễn ra chủ yếu tại các quốc gia nơi phụ nữ có một vị trí đặc biệt (xem Lý thuyết cơ hội sinh sản). Tại các quốc gia theo phụ hệ mạnh, nơi bà cho rằng phụ nữ ít có các quyền đặc biệt, tiêu chuẩn sống cao thường đi cùng tăng trưởng dân số.

Nhiều quốc gia có tỷ lệ tăng trưởng dân số cao nhưng có tỷ suất sinh thấp bởi sự tăng trưởng dân số cao trong quá khứ khiến tuổi nhân khẩu thường thấp, vì thế dân số vẫn tăng khi thế hệ trẻ đến tuổi sinh sản.

"Bẫy nhân khẩu" là một ý tưởng do Maurice King đề xuất, ông cho rằng hiện tượng này xảy ra khi một quốc gia có dân số lớn hơn khả năng chống đỡ của nó, không có khả năng di cư, và xuất khẩu quá ít để có thể nhập khẩu lương thực. Điều này sẽ gây ra nạn đói. Ông lấy ví dụ nhiều quốc gia hạ Sahara nơi đang ở trong hoặc sẽ rơi vào bẫy nhân khẩu, thay vì có một sự chuyển đổi dân số

Với toàn thế giới, số lượng trẻ em được sinh ra trên mỗi phụ nữ đã giảm từ 5.02 xuống 2.65 trong giai đoạn 1950 và 2005. Bảng chi tiết theo lục địa như sau:

  • Châu Âu 2.66 xuống 1.41
  • Bắc Mỹ 3.47 xuống 1.99
  • Châu Đại Dương 3.87 xuống 2.30
  • Trung Mỹ 6.38 xuống 2.66
  • Nam Mỹ 5.75 xuống 2.51
  • Châu Á (ngoại trừ Trung Đông) 5.85 xuống 2.43
  • Trung Đông & Bắc Phi 6.99 xuống 3.37
  • Châu Phi hạ Sahara 6.7 xuống 5.53

Năm 2050, con số trẻ em dự đoán sẽ được sinh ra trên mỗi phụ nữ là 2.05. Chỉ Trung Đông & Bắc Phi (2.09) và Châu Phi hạ Sahara (2.61) khi ấy sẽ có mức sinh lớn hơn 2.05.

Các ước tính khoa học về khả năng chống đỡ của Trái Đất trong khoảng một tới hai tỷ người, tuỳ theo các giá trị được sử dụng khi tính toán.

Trong một nghiên cứu với tiêu đề Thực phẩm, Đất đai, Dân số và Kinh tế Hoa Kỳ, David Pimentel, giáo sư sinh thái và nông nghiệp tại Đại học Cornell, và Mario Giampietro, nhà nghiên cứu cao cấp tại Viện nghiên cứu Quốc gia về Thực phẩm và Dinh dưỡng Hoa Kỳ (INRAN), ước tính con số tối đa của dân số Hoa Kỳ cho một nền kinh tế bền vững ở mức 200 triệu người. Để có được một nền kinh tế bền vững và tránh thảm hoạ, Hoa Kỳ ít nhất phải giảm một phần ba dân số, và dân số thế giới sẽ phải giảm đi hai phần ba, theo nghiên cứu này.

Steve Jones, lãnh đạo khoa sinh vật học tại Đại học London, đã nói, "Con người đông gấp 10,000 lần con số đáng ra phải có, theo các quy luật của vương quốc sinh vật, và chúng ta phải cảm ơn vì có nông nghiệp. Không có nông nghiệp, dân số thế giới có thể chỉ đạt mức nửa triệu ở thời điểm hiện tại."

Một số nhóm (ví dụ, Quỹ Thiên nhiên Hoang dã Thế giới và Global Footprint Network) đã cho rằng khả năng chống đỡ cho dân số loài người đã bị vượt quá khi được tính theo ecological footprint. Năm 2006, báo cáo "Living Planet" của WWF cho rằng để toàn bộ con người được sống sung túc (theo các tiêu chuẩn Châu Âu), chúng ta phải sử dụng ba lần nhiều hơn con số Trái đất có thể cung cấp.

Nhưng sự chỉ trích đặt nghi vấn về sự đơn giản và các phương pháp thống kê được sử dụng khi tính toán ecological footprints. Một số người chỉ ra rằng một phương pháp chính sách hơn để ước tính ecological footprint là để định rõ sự bền vững trước các yếu tố không bền vững của tiêu thụ.

David Pimentel, Giáo sư danh sự tại Đại học Cornell, đã nói rằng "với sự phát triển không cân xứng giữa dân số và các nguồn tài nguyên tối cần thiết cho sự sống, con người cần phải bảo vệ đất canh tác, nguồn nước, năng lượng và các nguồn tài nguyên sinh thái. Cần thiết phải phát triển các nguồn tài nguyên năng lượng tái tạo. Con người ở bất kỳ đâu phải hiểu rằng tăng trưởng dân số nhanh chóng đe doạ các nguồn tài nguyên của Trái đất và làm suy giảm chất lượng cuộc sống."

Những điều này cũng được phản ánh trong tài liệu của hội Nghiên cứu Địa chất Hoa Kỳ Tương lai hành tinh Trái đất: Các thách thức khoa học trong các thế kỷ tới. "Khi dân số thế giới tiếp tục tăng...con người ngày càng có nhu cầu nhiều hơn với các nguồn tài nguyên của hành tinh chúng ta, gồm khoáng chất và các nguồn năng lượng, không gian mở, nước, và các nguồn tài nguyên động thực vật." "Sự giàu có về thiên nhiên của Trái đất: một bản kiểm toán" của tạp chí New Scientist nói rằng nhiều khoáng chất mà chúng ta sử dụng cho nhiều sản phẩm hiện đang gặp nguy hiểm hay sẽ cạn kiệt trong tương lai gần. " Một số nhà địa chất trên thế giới đã tính toán chi phí cho các công nghệ mới về các khoáng chất họ sử dụng và việc áp dụng chúng cho khu vực kém phát triển. Tất cả đều đồng ý rằng dân số bùng nổ của thế giới và tiêu chuẩn sống gia tăng đang đặt ra những nhu cầu chưa từng có trên các khoáng chất mà Trái đất có thể đáp ứng. Các giới hạn về khả năng khai thác các khoáng chất có thể có nghĩa rằng kỹ thuật cũng không có giá trị gì ở thời hạn dài.... "Các mỏ kim loại còn chưa được khai thác dường như không đủ để duy trì chất lượng cuộc sống của 'thế giới phát triển' hiện đại cho mọi công dân Trái đất theo kỹ thuật hiện nay".

Mặt khác, một số tác gia, như Julian Simon và Bjorn Lomborg tin rằng các nguồn tài nguyên tồn tại dù cho dân số có tăng trưởng nữa. Tuy nhiên, những lời chỉ trích đã xuất hiện, điều này sẽ có một giá đắt cho Trái đất: "những người tin vào kỹ thuật có lẽ đúng khi cho rằng tổng sản xuất lương thực thế giới sẽ tăng ổn định trong vài thập kỷ nữa...[tuy nhiên] cái giá về môi trường của cái mà Paul R. và Anne H. Ehrlich miêu tả như việc 'biến Trái đất thành một nơi cung cấp lương thực vĩ đại cho loài người có thể rất khó khăn. Một sự mở rộng mạnh của nông nghiệp để cung cấp đủ lương thực cho dân số gia tăng của thế giới có lẽ sẽ dẫn tới sự phá rừng, tuyệt chủng các giống loài, xói mòn đất, và ô nhiễm hơn nữa từ các loại thuốc trừ sâu, phân bón khi nông nghiệp mở rộng và những vùng đất mới được đưa vào sản xuất." Bởi chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào các hệ thống sinh vật trên Trái đất, các nhà khoa học đã đặt câu hỏi về ý định mở rộng thêm nữa.

Theo Đánh giá các Hệ sinh thái Thiên niên kỷ, một nỗ lực nghiên cứu trong bốn năm của 1,360 nhà khoa học hàng đầu của thế giới nhằm tính toán giá trị hiện tại của các nguồn tài nguyên dành cho con người của thế giới, "Cơ cấu các hệ sinh thái thế giới đã thay đổi nhanh hơn trong nửa sau thế kỷ hai mươi hơn bất kỳ một thời điểm nào từng được ghi lại trong lịch sử loài người, và rõ ràng mọi hệ sinh thái Trái đất hiện đã bị biến đổi mạnh bởi các hoạt động của con người. "Các hoạt động của hệ sinh thái, đặc biệt là cung cấp thực phẩm, gỗ và cá, là rất quan trọng trong hoạt động kinh tế và việc làm của con người. Việc sử dụng quá mức các hệ sinh thái thường tạo ra ưu điểm trong ngắn hạn, nhưng việc sử dụng quá mức và không bền vững có thể dẫn tới những thiệt hại trong dài hạn. Một quốc gia có thể đốn rừng và tận diệt nguồn thuỷ sản, và điều này sẽ dẫn tới tăng GDP, dù có sự mất mát về tài sản. Nếu tổng giá trị kinh tế của các hệ sinh thái được tính đến trong việc hoạch định chính sách, sự tàn phá đối với chúng sẽ giảm đi rất nhiều hay thậm chí được đảo ngược." The MA blames habitat loss and fragmentation for the continuing disappearance of species.

Một nghiên cứu khác của Chương trình Môi trường Liên hiệp quốc (UNEP) gọi là Global Environment Outlook với sự tham gia của 1,400 nhà khoa học và 5 năm chuẩn bị cũng đi đến những kết luận tương tự. Nếu "thấy rằng sự tiêu thụ của con người đã vượt quá các nguồn tài nguyên có thể sử dụng. Mỗi con người trên Trái đất hiện cần diện tích đất rộng gấp ba lần diện tích Trái đất có thể cung cấp để có đủ cho nhu cầu của mình. "Nghiên cứu chê trách sự thất bại để "đáp ứng hay nhận biết mức độ các nguy cơ mà con người và môi trường của hành tinh đang phải đối mặt... 'Sự tàn phá có hệ thống các nguồn tài nguyên tự nhiên và dựa trên tự nhiên của Trái đất đã đạt tới mức khả năng tồn tại kinh tế của các nền kinh tế bị đe doạ - và vấn đề này sẽ được trao lại cho con cháu chúng ta với khả năng chúng không thể giải quyết'... Các tác giả bản báo cáo nói rằng mục tiêu của nó là 'không phải đưa ra môtj viễn cảnh tối tăm và ảm đạm, mà để đưa ra một lời kêu gọi khẩn thiết cho hành động'. Nó cảnh bảo rằng việc bàn bạc các vấn đề có thể ảnh hưởng tới quyền lợi của các nhóm kinh tế mạnh, và rằng môi trường phải là vấn đề quan trọng nhất trong việc quyết định chính sách... '

Ngoài ra, các vấn đề khác liên quan tới chất lượng cuộc sông - liệu đa số người muốn sống trong một thế giới với hàng tỷ người thêm nữa - và quyền căn bản của các giống loài khác là được tồn tại trong các môi trường của chúng cũng cần được tính đến.

Dù mọi nguồn tài nguyên, cả khoáng chất hay khác, là có giới hạn trên hành tinh của chúng ta, có một mức độ tự sửa chữa khi một sự khan hiếm hay nhu cầu cao với một loại riêng biệt nào đó xảy ra. Ví dụ năm 1990 nguồn dự trữ được biết của nhiều tài nguyên thiên nhiên ở mức cao hơn, và giá của chúng thấp hơn, ở năm 1970, dù có nhu cầu và mức tiêu thụ lớn hơn. Khi một cơn biến động giá diễn ra thị trường thường tự sửa chữa nó hoặc bằng cách thay thế bằng một nguồn tài nguyên tương tự hoặc thay đổi bằng một công nghệ mới.

Nước sạch

Các nguồn cung nước sạch, tối quan trọng cho nông nghiệp, đang giảm đi trên toàn thế giới. Cuộc khủng hoảng nước này hiện đang được dự báo sẽ trầm trọng thêm khi dân số tăng lên. Lester R. Brown thuộc Viện Chính sách Thế giới cho rằng sự giảm sút các nguồn nước sạch sẽ gây hậu quả nghiêm trọng cho nông nghiệp trong tương lai.

Có thể lấy nước sạch từ nước biển bằng cách khử muối. Ví dụ, Malta lấy hai phần ba nước sạch cho nhu cầu của mình bằng khử muối. Một số nhà máy khử mối bằng năng lượng hạt nhân đã được xây dựng, và một số người cho rằng có đủ nhiên liệu hạt nhân cho hàng tỷ năm nữa. Nhưng chi phí cao của quá trình khử muối, đặc biệt với các nước kém phst triển, khiến việc chuyển lượng lớn nước biển đã khử muối vào trong nội địa trở nên bất khả thi với các nước lớn. Tuy nhiên, khi khử muối cho 1,000 gallons nước có thể mất $3, dung tích nước đóng chai tương tự có giá đến $7,945.

Một nghiên cứu tìm ra rằng "cần phải đưa nước lên cao 2000 m, hay vận chuyển nó hơn 1600 km để có chi phí vận chuyển tương tự như việc khử muối. Nước đã khử muối rất đắt tại những nơi vừa xa biển vừa ở trên cao, như Riyadh và Harare. Tại những nơi khác, chi phí chủ yếu là việc khử muối chứ không phải vận chuyển. Điều này giúp giảm chi phí như tại các thành phố Bắc Kinh, Bangkok, Zaragoza, Phoenix, và, tất nhiên, các thành phố ven biển như Tripoli." Vì thế tuy nghiên cứu nói chung là khả quan về công nghệ và các địa điểm thích hợp ở gần biển, nó kết luận rằng "Nước khử muối có thể là giải pháp cho một số vùng theo nước, nhưng không phải cho các địa điểm nghèo, nằm sâu trong lục địa, hay ở độ cao lớn. Không may thay, trong số này lại có những nơi đang gặp phải vấn đề nghiêm trọng nhất."

Israel hiện đang khử muối cho nước với chi phí 53 cent mỗi mét khối, Singapore với giá 49 cent trên mét khối. Tại Hoa Kỳ, chi phí là 81 cent trên mét khối ($3.06 cho 1,000 gallons).

Một vấn đề khác của việc khử muối là "sản phẩm phụ độc hại của nước mặn là một nguyên nhân chính gây ô nhiễm biển khi bị bơm trở lại vào đại dương ở nhiệt độ cao."

Nhà máy khử muối lớn nhất thế giới nằm tại là Nhà máy Khử muối Jebel Ali (Giai đoạn 2) tại Các tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất, có thể sản xuất 300 triệu mét khối nước mỗi năm, hay khoảng 2500 gallon mỗi giây. Nhà máy khử mối lớn nhất Hoa Kỳ nằm tại Vịnh Tampa, Florida, bắt đầu khử muối 25 triệu gallons (95000 m³) nước mỗi ngày từ tháng 12 năm 2007. Một bài báo ngày17 tháng 1 năm 2008 trên tờ Wall Street Journal nói rằng, "Trên thế giới, 13,080 nhà máy khử muối sản xuất ra hơn 12 tỷ gallon nước mỗi ngày, theo Hiệp hội Khử muối Quốc tế." Sau khi được khử muối tại Jubail, Ả Rập Saudi, nước được bơm 200 dặm vào trong đất liền thông qua đường ống tới thủ đô Riyadh.

Lương thực

Một số người cho rằng có đủ lương thực để cung cấp cho dân số thế giới, nhưng những người khác lại tranh cãi về điều này, đặc biệt nếu tính tới sự phát triển bền vững.

Hiện hơn 100 quốc gia phải nhập khẩu bột mì và 40 nước nhập khẩu gạo. Ai Cập và Iran phải nhập khẩu 40% nhu cầu ngũ cốc của mình. Algeria, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan nhập khẩu 70% hay hơn nữa. Yemen và Israel nhập khẩu hơn 90%. Và chỉ 6 nước - Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Australia, Argentina và Thái Lan - cung cấp 90% lượng ngũ cốc xuất khẩu. Riêng Hoa Kỳ cung cấp hầu như một nửa lượng xuất khẩu ngũ cốc của thế giới.

Một báo cáo năm 2001 của Liên hiệp quốc nói rằng tăng trưởng dân số là "lực đẩy chính điều khiển sự gia tăng nhu cầu nông nghiệp" nhưng "đa số các đánh giá gần đây của chuyên gia đều lạc quan một cách thận trọng về khả năng sản xuất lương thực tế giới để đáp ứng nhu cầu trong một tương lai có thể đoán trước (có nghĩa rằng, cho tới khoảng năm 2030 hay 2050)", với các tỷ lệ sinh đang giảm.

Triển vọng toàn cầu

Tăng sản xuất lương thực đã lớn hơn tăng dân số. Thực phẩm trên người đã tăng trong giai đoạn 1961-2005.

Số lượng các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong hoàn cảnh này không cần thiết phải ấn định, và sự phân bố của chúng cũng không cần phải là một zero-sum game. Ví dụ, nhờ cuộc Cách mạng xanh và thực tế rằng ngày càng có nhiều đất được chuyển từ đất hoang sang đất canh tác, sản xuất lương thực trên toàn thế giới đã tăng vững chắc cho tới tận năm 1995. Sản xuất lương thực thế giới trên đầu người năm 2005 cao hơn năm 1961.

Khi dân số thế giới tăng gấp đôi từ 3 tỷ lên 6 tỷ, tiêu thụ calorie hàng ngày ở các nước nghèo đã tăng từ 1,932 lên 2,650, và phần trăm số người suy dinh dưỡng tại các quốc gia đó đã giảm từ 45% xuống còn 18%. Điều này có nghĩa rằng sự nghèo đói ở Thế giới thứ Ba gây ra bởi sự kém phát triển, không phải sự quá tải dân số. Tuy nhiên, những người khác đã tỏ ra nghi ngờ những con số thống kê này.

Số người quá cân đã vượt quá số người suy dinh dưỡng. Trong một bản tin năm 2006, MSNBC thông báo, "Ước tính có 800 triệu người suy dinh dưỡng và hơn một tỷ người bị coi là thừa cân trên thế giới."

Tổ chức Nông Lương Liên hiệp quốc đã nói trong bản báo cáo của mình Tình trạng An ninh Lương thực trên Thế giới năm 2006, rằng tuy số người suy dinh dưỡng tại các nước đang phát triển đã giảm khoảng 3 triệu người, một tỷ lệ dân số nhỏ hơn tại các nước đang phát triển hiện nay bị suy dinh dưỡng so với thời kỳ 1990–92: 17% so với 20%. Hơn nữa, dự đoán của FAO cho rằng tỷ lệ người đói tại các nước đang phát triển sẽ giảm một nửa từ mức năm 1990-92 còn 10% năm 2015. FAO cũng cho rằng "Chúng ta phải nhấn mạnh đầu tiên và trước hết rằng giảm nạn đói không phải là một vấn đề về phương tiện trong tay cộng đồng quốc tế. Thế giới hiện giàu hơn so với nó mười năm trước. Có nhiều thực phẩm hơn và vẫn có nhiều lương thực được sản xuất ra mà không gặp áp lực về giá. Tri thức và các nguồn tài nguyên để giảm nạn đói vẫn có. Điều còn thiếu là mong muốn chính trị thực sự để tập trung các nguồn tài nguyên giải quyết vấn đề."

Ở thời điểm năm 2008, giá ngũ cốc đã tăng vì nhiều khu vực đất nông nghiệp bị sử dụng sản xuất nhiên liệu sinh học, giá dầu mỏ ở mức $100 mỗi barrel, tăng trưởng dân số thế giới, thay đổi khí hậu, sự mất mát đất nông nghiệp cho phát triển công nghiệp và làm nhà ở, và sự tăng nhu cầu tiêu thụ ở Trung Quốc và Ấn Độ Các cuộc bạo loạn vì lương thựcgần đây đã diễn ra ở nhiều nước trên khắp thế giới. Một bệnh dịch xuất hiện trên lúa mì do giống Ug99 hiện đang lan tràn khắp Châu Phi và vào Châu Á gây ra mối lo ngại lớn. Một bệnh dịch gây hại rất lớn trên cây lúa mì có thể tiêu diệt hầu hết thu hoạch của loại ngũ cốc chính của thế giới, khiến hàng triệu người chết đói. Loài nấm này đã lây từ Châu Phi tới Iran, và có lẽ đã xuất hiện ở Afghanistan và Pakistan.

Châu Phi

Tại Châu Phi, nếu các xu hướng xói mòn đất và tăng dân số hiện tại tiếp tục, lục địa này có thể chỉ cung ứng được 25% nhu cầu lương thực cho người dân của nó vào năm 2025, theo Viện các nguồn Tài nguyên Thiên nhiên có trụ sở ở Ghana của UNU.

Nạn đói và suy dinh dưỡng gây cái chết của gần 6 triệu trẻ em mỗi năm, và trong thập kỷ này con số người suy dinh dưỡng ở Châu Phi hạ Sahara cao hơn hồi thập niên 1990, theo một báo cáo do Tổ chức Nông Lương Liên hiệp quốc đưa ra. Tại Châu Phi hạ Sahara, số người suy dinh dưỡng đã tăng từ 203.5 triệu năm 2000-02 từ 170.4 triệu 10 năm trước, báo cáo Tình trạng An ninh Lương thực trên Thế giới cho biết.

Theo BBC, nạn đói ở Zimbabwe có nguyên nhân vì chính phủ nắm đất canh tác. Tuy nhiên, hạn hán cũng đóng một vai trò lớn. Hạn hán tại miền Nam Châu Phi hiện đe doạ 13 triệu người với nạn đói, 6 triệu người trong số đó sống tại Zimbabwe. Sự thiếu hụt lương thực hiện nay được dự báo sẽ còn nghiêm trọng hơn. Trước sự phối hợp của nạn hạn hán và chiếm đoạt đất canh tác, Zimbabwe xuất khẩu rất nhiều lương thực tới mức nước này đã được gọi là "giỏ bánh mì của miền Nam Châu Phi", nên các nước khác cũng có thể bị ảnh hưởng bởi tình trạng chiếm đoạt đất đai. Những người nghiên cứu nạn đói ở Zimbabwea cho rằng các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có có dư hơn nhu cầu nuôi sống người dân. Một số người cho rằng các con đập và con sông ở Zimbabwe đầy nước, và rằng nạn đói không liên quan tới hạn hán. Mặc dù chắc chắn rằng quản lý kém đã làm trầm trọng hơn tình trạng đói kém, bài báo ghi chú rằng "Bốn tuần không mưa trong giai đoạn nảy mầm tối quan trọng đã dấn tới tình trạng mất mùa [của những người nông dân]. Sẽ không có vụ mùa nào khác cho tới tận tháng 6 sau."

Trước khi Tổng thống Robert Mugabe chiếm đoạt đất canh tác ở Zimbabwe, các nông dân đã sử dụng hệ thống thuỷ lợi để đối phó với hạn hán, nhưng khi đã bị lấy mất đất đai, đa số các thiết bị thuỷ lợi đã bị cướp phá và huỷ hoại. Một bài báo năm 2006 của BBC về việc chiếm đoạt đất đai nói rằng, "Những người chỉ trích nói các cuộc cải cách đã tàn phá nền kinh tế và dẫn tới nạn đói trên diện rộng. Đa số những người da trắng sở hữu đất đai trước kia không còn sản xuất ra lương thực nữa - hoặc bởi những người được nhận đất không có kinh nghiệm canh tác hoặc họ thiếu vốn hay công cụ. Nhiều nông trang đã bị phá hoại khi những người ủng hộ chính phủ tràn vào."

So với mật độ dân số 33 người trên kilômét vuông của Zimbabwe, Israel có 302 người trên kilômét vuông. Dù Israel là một quốc gia sa mạc với hạn hán thường xuyên và mật độ dân số rất cao, nước này không gặp nạn đói. Một lý do có thể của điều này là bởi chính phủ khuyến khích nông dân sử dụng nông nghiệp và thuỷ lợi hiện đại để gia tăng sản lượng thu hoạch. Một lý do có thể khác là Israel là một nước nhập khẩu lương thực. Cũng cần lưu ý rằng sản lượng cao của nông nghiệp hiện đại phụ thuộc vào việc sử dụng bền vững nhiên liệu hoá thạch để sản xuất ra phân bón và thuốc trừ sâu và để sử dụng máy móc nông nghiệp.

Châu Á

Tại Trung Quốc, chỉ 8% trẻ em thiếu cân. Theo một bài báo năm 2004 của BBC, Trung Quốc, nước đông dân nhất thế giới, đang gặp phải tình trạng béo phì. Những dữ liệu gần đây hơn cho thấy sản lượng ngũ cốc của Trung Quốc tăng đỉnh điểm hồi giữa thập niên 1990, nhờ việc khoan nước ngầm tại đồng bằng Bắc Trung Quốc.

Gần một nửa trẻ em Ấn Độ bị suy dinh dưỡng, theo dữ liệu gần đây của chính phủ. Nhật Bản có thể cũng gặp phải khủng hoảng lương thực làm giảm chất lượng bữa ăn xuống ngang mức thập niên 1950, một cố vấn cao cấp của chính phủ nước này cho biết.

Châu Mỹ

Theo một bài báo năm 2007 của BBC, các nhà khoa học tại Đại học Columbia đã đưa ra giả thiết rằng trong tương lai, các thành phố có mật độ dân đông đúc như Mexico City, Los Angeles, và New York City, là những thành phố lớn nhất ở Bắc Mỹ, có thể sử dụng canh tác theo chiều dọc để trồng cây lương thực trên các toà nhà chọc trời 30 tầng.

Dân số như một chức năng của khả năng tiếp cận lương thực

Các nhà tư tưởng như David Pimentel, một giáo sư từ Đại học Cornell, Virginia Abernethy, Alan Thornhill, Russell Hopffenberg và tác gia Daniel Quinn đưa ra giả thiết rằng, như mọi loài động vật khác, dân số loài người dự đoán sẽ tăng và giảm theo khả năng cung cấp lương thực của mình - dân số tăng khi có nhiều lương thực, và giảm khi thiếu thốn.

Các đề xuất của lý thuyết này cho rằng mọi thời điểm sản xuất lương thực gia tăng, dân số gia tăng. Dân số loài người trong suốt lịch sử ủng hộ lý thuyết này. Dân số thời săn bắn hái lượm tăng giảm theo số lượng lương thực có được. Dân số gia tăng sau cuộc Cách mạng Thời kỳ Đồ đá mới đi liền với sự gia tăng lương thực. Tiếp đó là sự gia tăng dân số sau các cuộc cách mạng nông nghiệp.

Những người chỉ trích ý tưởng này chỉ ra rằng các tỷ lệ sinh đang ở mức thấp nhất tại các nước phát triển, cũng là những nơi có mức độ tiếp cận lương thực lớn nhất. Trên thực tế, một số nước phát triển vừa có dân số giảm vừa có nguồn cung lương thực dồi dào. Liên hiệp quốc dự đoán các quốc gia thuộc Liên xô cũ, sẽ có số dân năm 2050 thấp hơn năm 2005. Điều này cho thấy khi một người giới hạn tầm quan sát của mình vào một dân số sống trong một biên giới chính trị cho trước, dân số con người không phải luôn tăng cùng với khả năng cung cấp lương thực. Ngoài ra, nhiều quốc gia đó còn là nước xuất khẩu lương thực lớn.

Tuy nhiên, trên bình diện toàn cầu dân số thế giới đang gia tăng, và lượng lương thực loài người sản xuất ra cũng tăng - một mô hình đã từng đúng trong gần 10,000 năm, bởi con người phát triển lương thực. Một số quốc gia cho thấy suy giảm dân số không không ảnh hưởng tới lý thuyết. Lương thực di chuyển xuyên biên giới từ vùng nhiều tới vùng ít. Ngoài ra, lý thuyết này không đơn giản tới mức đưa ra dự đoán dựa trên một cuộc nghiên cứu riêng biệt, như các xu hướng dân số hiện nay của Đức - và tính đến các yếu tố

0