24/05/2018, 21:30

Phương hướng và biện pháp xây dựng các tổng công ty thành tập đoàn kinh tế lớn mạnh

Xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi của việc phát triển bền vững nền kinh tế Việt Nam đối với các Tổng công ty trong thời kỳ mới, các Tổng công ty cần tổ chức thực hiện đầy đủ Nghị quyết hội nghị trung ương lần thứ 4 (khoá VIII) và nghị quyết của quốc hội khoá X ...

Xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi của việc phát triển bền vững nền kinh tế Việt Nam đối với các Tổng công ty trong thời kỳ mới, các Tổng công ty cần tổ chức thực hiện đầy đủ Nghị quyết hội nghị trung ương lần thứ 4 (khoá VIII) và nghị quyết của quốc hội khoá X kỳ họp thứ 2 về đổi mới DNNN.

Tổng kết mô hình Tổng công ty Nhà nước, trên cơ sở đó có phương án xây dựng các Tổng công ty thực sự trở thành những tập đoàn kinh tế mạnh, có hiệu quả và sức cạnh tranh cao, thực sự là xương sống của nền kinh tế.

Tập đoàn kinh tế mạnh của Việt Nam, theo các chuyên gia kinh tế, phải do chính phủ quản lý và đạt được các tiêu chuẩn sau đây:

  • Có quy mô sản xuất kinh doanh lớn, sản xuất kinh doanh một ngành hàng, một nhóm ngành hàng hoặc nhiều ngành hàng có quan hệ chặt chẽ với nhau, có vị trí quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân nước ta. Đó là những ngành then chốt, mũi nhọn, trọng điểm, là xương sống của nền kinh tế quốc dân trong từng thời kỳ phát triển của đất nước.
  • Có công nghệ, phương tiện và phương pháp kinh doanh, quản lý hiện đại để đạt năng suất lao động cao, chất lượng hàng hoá tốt, giá thành sản phẩm hàng hoá, dịch vụ rẻ, đứng vững và cạnh tranh thắng lợi trên thị trường trong nước, khu vực và quốc tế. Đạt được chữ tín với khách hàng, có thị trường tiêu thụ ổn định và rộng lớn trong nước, trong khu vực và quốc tế. Có đội ngũ lao động, đặc biệt là đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề, có nhiều chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực công nghệ, sản xuất kinh doanh và quản lý. Đội ngũ lao động này phải tương đối đồng Bộ về cơ cấu trình độ, ngành nghề đủ sức giải quyết có chất lượng và hiệu quả toàn Bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của tập đoàn kinh doanh.
  • Có đủ vốn sản xuất kinh doanh để thực hiện nhiệm vụ được giao từ các nguồn vốn Nhà nước, vốn vay ngân hàng trong nước và nước ngoài, vốn đầu tư nước ngoài, vốn tự có của tập đoàn kinh doanh, vốn vay của cán Bộ công nhân viên trong tập đoàn kinh tế và vốn huy động trong nhân dân... Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh đạt được hệ số cao hơn các Tổng công ty, bảo toàn và phát triển được vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh.
  • Có giá trị sản lượng hàng hoá và hàng hoá XNK đạt tỉ trọng cao và lớn hơn Tổng công ty cùng ngành nghề có quy mô lớn. Đạt lợi nhuận, hiệu quả cao, nộp tích luỹ lớn cho Nhà nước và đủ khả năng đảm bảo sự tồn tại và phát triển của tập đoàn kinh doanh. Chấp hành nghiêm túc pháp luật, chính sách, chế độ của Nhà nước quy định đối với tập đoàn kinh doanh.

Phát huy đầy đủ vai trò chủ đạo của một tổ chức kinh tế Nhà nước trên những mặt chủ yếu: mở đường cho các thành phần kinh tế khác phát triển và bình đẳng trong cạnh tranh, phát triển quan hệ hợp tác, tạo điều kiện giúp đỡ các thành phần kinh tế khác phát triển, có thực lực kinh tế mạnh và quyết định những cân đối chủ yếu của nền kinh tế; tạo nền tảng xây dựng chế độ xã hội mới, chế độ XHCN ở Việt Nam.

Muốn vậy, các Tổng công ty phải phấn đấu thực hiện tốt những phương hướng và biện pháp cơ bản sau:

Xây dựng chiến lược kinh doanh và phát triển Tổng công ty là khâu đầu tiên rất cần thiết và cơ bản. Chiến lược kinh doanh và phát triển công ty phải căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, chiến lược phát triển kinh doanh, căn cứ vào nhu cầu của thị trường về hàng hoá và dịch vụ; căn cứ vào khả năng hiện tại và tương lai của Tổng công ty. Dựa vào các căn cứ đó, Tổng công ty quyết định đúng đắn ba vấn đề cơ bản là: sản xuất kinh doanh mặt hàng, chất lượng và quy mô theo yêu cầu của thị trường; Hai là lựa chọn các đầu vào: nguyên vật liệu, công nghệ, phương pháp, phương tiện, nguồn nhân lực, nguồn vốn phù hợp với quyết định sản xuất kinh doanh; Ba là sản xuất kinh doanh dịch vụ cho ai, tiêu thụ hàng hoá dịch vụ ở thị trường nào, thu nhập và lợi nhuận phải được phân phối hợp lý giữa Nhà nước, Tổng công ty và các đơn vị thành viên, người lao động trong đó phải ưu tiên đúng mức cho lao động quản lý, điều hành, đầu ngành, lao động lành nghề. Chiến lược kinh doanh và phát triển Tổng công ty phải đồng Bộ theo lĩnh vực chủ yếu: sản xuất - kỹ thuật - tài chính - kinh doanh. Trong đó đặc biệt quan tâm đến chiến lược sản phẩm, chiến lược đổi mới công nghệ, đầu tư, xuất nhập khẩu. Căn cứ vào chiến lược kinh doanh và phát triển của Tổng công ty, các công ty thành viên xây dựng đúng đắn chiến lược kinh doanh và phát triển của mình. Chỉ khi có chiến lược kinh doanh và phát triển đúng đắn, Tổng công ty và công ty thành viên mới có căn cứ để chủ động tiến hành, chuẩn bị tốt nhất, thuận lợi nhất những điều kiện trong sản xuất kinh doanh và phát triển có hiệu quả.

Trên cơ sở tổng kết mô hình Tổng công ty đã được thành lập trong những năm qua, Nhà nước cần tiến hành tổ chức lại mô hình của Tổng công ty, chuyên ngành, nhóm ngành, đa ngành và theo chức năng: kinh doanh, công ích vừa công ích vừa kinh doanh. Nhà nước cần rà soát để xác định rõ hơn, cụ thể hơn vai trò, vị trí, nhiệm vụ chủ yếu của từng loại mô hình Tổng công ty. Căn cứ vào chiến lược kinh doanh và phát triển của từng công ty, cần tiến hành tổ chức lại cơ cấu sản xuất kinh doanh và cơ cấu quản lý một cách hợp lý theo hướng.

Tổ chức lại một cách hợp lý, đồng Bộ hơn quá trình sản xuất - kinh doanh của Tổng công ty.

Muốn vậy cần xác định đúng quy mô sản xuất kinh doanh và phục vụ của từng Tổng công ty, quyết định đúng số lượng và quy mô các công ty thành viên. Cần thiết để thực hiện đồng Bộ, có hiệu quả các khâu của quá trình kinh doanh: tìm kiếm nhu cầu thị trường và sản phẩm hàng hoá dịch vụ của Tổng công ty; chuẩn bị đồng Bộ các yéu tố đầu vào của quá trình kinh doanh; sản xuất hàng hoá và dịch vụ; tổ chức tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ để được thu tiền về; chuẩn bị cho quá trình kinh doanh tiếp tục của Tổng công ty.

Khi xác định lại cơ cấu sản xuất kinh doanh cần quyết định rõ ràng những công ty thành viên sẽ được cổ phần hoá, liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài và trong nước. Tổng công ty nắm giữ những công ty thành viên chủ lực như công ty mẹ, công ty tài chính, xuất nhập khẩu v.v...

Tổ chức lại cơ cấu quản lý có hiệu lực, chuyên trác.

Đối với các Tổng công ty có công ty thành viên là công ty Nhà nước. Công ty được cổ phần hoá, công ty tham gia vào các liên doanh cần thành lập Hội đồng quản trị. HĐQT thực hiện chức năng quản lý, bảo toàn và phát triển vốn trong đa hình thức sở hữu của Tổng công ty (sở hữu vốn Nhà nước 100%, sở hữu vốn Nhà nước tham gia vào liên doanh, vào công ty cổ phần). Mô hình tổ chức HĐQT còn cần thiết đối với các Tổng công ty Nhà nước chuyên ngành, có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, vai trò quan trọng trong ngành, tỉnh toàn thành phố. HĐQT lựa chọn Tổng giám đốc điều hành, các đại diện tham gia HĐQT trong các liên doanh, công ty cổ phần. Để giúp HĐQT quản lý, cần xây dựng cơ quan văn phòng thường trực đủ mạnh bao gồm một số chuyên gia đầu ngành về lĩnh vực sản xuất - kinh doanh - kỹ thuật - tài chính - tiền tệ - đầu tư.

Để giúp TGĐ điều hành thực hiện nghị quyết HĐQT cần thành lập Bộ máy điều hành của Tổng công ty hoạt động có hiệu lực, thành lập các cơ quan chức năng, tham mưu, phù hợp chuyên nhưng tinh như viện nghiên cứu và ứng dụng; trung tâm đào tạo, bồi dưỡng, các cơ quan quản lý và phục vụ theo lĩnh vực và theo quá trình kinh doanh sản xuất, kinh doanh - kỹ thuật - tài chính - tiền tệ - đâu tư - tiêu thụ v.v... cơ cấu và quy mô của cơ quan điều hành phải phù hợp với đặc điểm, yêu cầu phát triển của Tổng công ty.

Căn cứ vào định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá chiến lược kinh doanh và phát triển Tổng công ty, từng công ty thành viên, cần xây dựng chiến lược, kế hoạch dài hạn đúng đắn về đầu tư phát triển và đổi mới công nghệ.

Các Tổng công ty phải quản lý những hoạt động chủ yếu về sản xuất kinh doanh của Tổng công ty và quản lý các công ty thành viên: vì vậy các Tổng công ty phải xác định đúng phương hướng phát triển và phương hướng đầu tư đổi mới công nghệ cho phù hợp.

Nhu cầu phát triển của toàn Bộ Tổng công ty đòi hỏi trước hết phải đầu tư cho sản xuất - kinh doanh và quản lý, đặc biệt là công nghệ, phương tiện, phương pháp sản xuất - kinh doanh và quản lý, đầu tư cho đào tạo và bồi dưỡng cho công nhân lành nghề, cán Bộ công nghệ đầu ngành, cán Bộ quản lý chủ chốt các cấp trong Tổng công ty, đầu tư cho quá trình phát triển thị trường tiêu thụ và xuất nhập khẩu. Trong phương hướng đầu tư được xác định cần luôn luôn đảm bảo tính đồng Bộ giữa các mặt quan trọng sau đây:

  • Gắn chặt việc sản xuất hàng hoá, dịch vụ của Tổng công ty với phát triển thị trường tiêu thụ trong nước và nước ngoài. Một số hàng hoá và dịch vụ cung lớn hơn cầu, không tiêu thụ được, gây ứ đọng vốn như hiện nay là một minh chứng của mâu thuẫn giữa thị trường và sản xuất chưa được một số Tổng công ty giải quyết tốt.
  • Gắn chặt việc phát triển quy mô sản xuất kinh doanh và nâng cao chất lượng hàng hoá của Tổng công ty với sự phát triển các nguồn vốn sản xuất kinh doanh hiện có. Thực trạng về nguồn vốn hiện nay của Tổng công ty cho thấy nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển rất lớn, nhưng mức độ đáp ứng còn thấp, thiếu vốn là tình trạng phổ biến và nghiêm trọng. Đây là mâu thuẫn mà Tổng công ty và Nhà nước chưa giải quyết được .
  • Gắn chặt đổi mới công nghệ, phương tiện và phương pháp sản xuất kinh doanh quản lý tiên tiến hiện đại với đội ngũ lao động nhất là lao động lành nghề vận hành và cán Bộ quản lý công nghệ mới. Nhưng có thể nói tình trạng nhập công nghệ lạc hậu vẫn còn tiếp diễn, đội ngũ lao động vận hành và quản lý công nghệ mới. Hiện đại chưa đáp ứng được, nên hiệu quả sử dụng thấp. Trong việc xây dựng và thực hiện phương hướng đầu tư đổi mới công nghệ các Tổng công ty cần quản lý những công nghệ chủ lực và xây dựng mới, đồng thời hướng dẫn và kiểm tra việc đổi mới công nghệ của các công ty thành viên, đặc biệt là đầu tư chiều sâu.

Muốn vậy các Tổng công ty phải tiến hành các hoạt động chủ yếu sau:

  • Tìm kiếm thị trường xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ của Tổng công ty, xây dựng chiến lược và kế hoạch XNK, đặc biệt là xác định quy mô mặt hàng, chất lượng và giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu. Có như vậy mới có cơ sở bảo đảm sự thống nhất trong quản lý xuất nhập khẩu của Tổng công ty.
  • Tổ chức thực hiện chiến lược, kế hoạch xuất nhập khẩu của Tổng công ty. Muốn vậy cần tổ chức Bộ máy cần thiết, thích hợp như công ty xuất nhập hoặc phòng quản lý xuất nhập khẩu và quy định trách nhiệm cụ thể của Bộ máy các hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Phân công tác cho công ty thành viên tham gia thực hiện kế hoạch xuất nhập khẩu của Tổng công ty. Quy định hợp lý lợi ích về hoạt động xuất nhập khẩu giữa Tổng công ty và các công ty thành viên.
  • Chỉ huy thống nhất phối hợp chặt chẽ các hoạt động xuất nhập khẩu trong Tổng công ty, bảo đảm cho hoạt động thuận lợi, mang lại hiệu quả cao. Tiến hành kiểm tra và điều chỉnh kịp thời những bất hợp lý trong quá trình thực hiện các hoạt động xuất nhập khâủ.
  • Có biện pháp khuyến khích đúng mức để thúc đẩy sản xuất các mặt hàng xuất khẩu với quy mô lớn, đạt kim ngạch xuất khẩu cao, lợi nhuận tăng của các công ty thành viên và Tổng công ty.Cần khuyến khích cả về tinh thần và vật chất đúng mức căn cứ vào kết quả mà người lao động và các tổ chức trong Tổng công ty đã thực hiện và đóng góp, đặc biệt là khuyến khích vật chất.

Muốn vậy cần giải quyết các vấn đề sau:

  • Chủ động có biện pháp huy động nhiều nguồn vốn cho phát triển: vốn Nhà nước, vốn nước ngoài, vốn vay trong nước và nước ngoài, vốn vay cán Bộ và nhân dân. Điều hoà và phân phối nguồn và tài sản cho các công ty thành viên thực hiện kế hoạch phát triển kinh doanh, bảo đảm phát triển đồng Bộ trong Tổng công ty, hỗ trợ giúp đỡ các công ty thành viên có khó khăn.
  • Thực hiện các biện pháp sử dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn vốn để bảo toàn và phát triển vốn. Tăng nhanh vòng quay vốn, tăng lợi nhuận trên một đồng vốn là cơ sở vững chắc để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn, bảo toàn và phát triển vốn. Muốn vậy, phải quản lý các định mức, tiêu chuẩn về sử dụng vốn và tài sản; tiết kiệm và chống lãng phí, tham ô tài sản, tiền vốn trong từng khâu, từng lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý.
  • Từng bước thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh thống nhất của toàn Bộ Tổng công ty. Tập đoàn kinh tế được xác định là một tổ chức kinh doanh thì nó phải là một tổ chức hạch toán kinh tế độc lập còn các công ty thành viên hạch toán phụ thuộc. Nhưng trong quá trình kinh doanh, các Tổng công ty cần có cơ chế uỷ quyền cho các công ty thành viên được thực hiện một số quyền hạn nhất định, về tài chính. Có như vậy mới vừa bảo đảm tính tập trung thống nhất, vừa phát huy tính chủ động trong kinh doanh của các công ty thành viên.

Hội đồng quản trị của Tổng công ty, đứng đầu là chủ tịch Hội đồng quản trị là cơ quan quản trị, là đại diện chủ sở hữu trực tiếp, chịu trách nhiệm trước Nhà nước về bảo toàn và phát triển vốn của Nhà nước. HĐQT xây dựng cơ quan Tổng giám đốc, chọn cử Tổng giám đốc Tổng công ty để cơ quan cấp trên bổ nhiệm. Tổng giám đốc điều hành toàn Bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng giám đốc công ty theo nghị quyết của HĐQT.

Ban kiểm soát là cơ quan độc lập chịu trách nhiệm kiểm soát toàn Bộ hoạt động của Tổng công ty theo nghị quyết của HĐQT và chính sách của Nhà nước. Như vậy, ba cơ quan này có chức năng rõ ràng, nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau cùng thực hiện một mục tiêu chung là nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của Tổng công ty. Nhưng các cơ quan của Tổng công ty: HĐQT, cơ quan Tổng giám đốc, ban kiểm soát có quan hệ chặt chẽ với nhau, thúc đẩy nhau phát triển. HĐQT đứng đầu là chủ tịch HĐQT phải tạo môi trường thuận lợi cho cơ quan Tổng giám đốc điều hành, đứng đầu là Tổng giám đốc. Cơ quan Tổng giám đốc, đứng đầu là Tổng giám đốc phải tạo điều kiện thuận lợi cho ban kiểm soát hoạt động có hiệu lực, ban kiểm soát sớm phát hiện giúp đỡ HĐQT, cơ quan Tổng giám đốc Tổng công ty hoạt động theo đúng pháp luật, theo cơ chế chính sách của Nhà nước. Các cơ quan này đều phải đặt dưới sự lãnh đạo của tổ chức Đảng cùng cấp như Đảng uỷ, ban cán sự Đảng của Tổng công ty. HĐQT cơ quan điều hành cần chủ động tạo điều kiện phối hợp chặt chẽ với tổ chức công đoàn và đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh cùng cấp để thực hiện mục tiêu kinh doanh và phát triển của Tổng công ty.

Chuyển dịch cơ cấu sở hữu của DNNN, của các Tổng công ty theo hướng chuyển một Bộ phận DNNN thành công ty cổ phần góp vốn vào liên doanh với nước ngoài tại Việt Nam và các thành phần kinh tế khác là đúng đắn và rất cần thiết. Nhưng thực tế cho thấy số vốn Nhà nước trong công ty cổ phần và liên doanh không phát triển được, thậm chí tỉ trọng vốn giảm và mất vốn. Nguyên nhân có thể bao gồm nhiều mặt, nhưng trong đó có việc quản lý nguồn vốn và nguồn nhân lực trong công ty cổ phần và liên doanh chưa chặt chẽ, thậm chí còn buông lỏng. Nhà nước chưa quy định cho cơ quan nào quản lý đầy đủ nguồn vốn này. Vì vậy, cần thực hiện các biện pháp sau:

  • Nâng cao trách nhiệm trong việc phát triển nguồn lực của nguồn nhân lực đặc biệt là đội ngũ cán Bộ chủ chốt đại diện cho Nhà nước hoạt động trong công ty cổ phần và liên doanh để có các hình thức khen thưởng về tinh thần và vật chất. Cần quy định rõ trách nhiệm vật chất và tinh thần của họ đối với nhiệm vụ bảo toàn và phát triển vốn, phát triển nguồn lực của Nhà nước.
  • Giao cho các Tổng công ty và cơ quan quản lý vốn tài sản của Nhà nước quản lý chặt chẽ nguồn vốn và tài sản, nguồn nhân lực đặc biệt là người đại diện của Nhà nước trong công ty cổ phần và liên doanh với các thành phần kinh tế khác.Nhà nước cần có cơ chế kiểm tra, kiểm soát về kinh tê - tài chính của các công ty cổ phần và liên doanh với các thành phần kinh tế khác, hạn chế, khắc phục tình trạng trong liên doanh với nước ngoài có công ty mẹ đã chuyển dịch giá, nâng giá đầu vào để làm cho liên doanh bị lỗ “giả” để nhà đầu tư lãi “thật”, phía Việt Nam lỗ “thật”.
  • Xây dựng đúng đắn quy hoạch ngành, kết hợp với lãnh thổ để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài, trong nước liên doanh với các Tổng công ty Nhà nước, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài, trong nước liên doanh với các Tổng công ty Nhà nước, yêu cầu các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện nghiêm túc các cam kết về xuất khẩu hàng hoá. Cần thực hiện các biện pháp cần thiết khi bên nước ngoài không thực hiện cam kết trong giấy phép. Có như vậy mới đảm bảo thực hiện trật tự kinh tế trong liên doanh và hạn chế những tiêu cực có thể xảy ra gây tổn thất cho Nhà nước.

Sự phối hợp chặt chẽ và đồng Bộ giữa các Bộ, tỉnh, thành phố trong việc quản lý Nhà nước đối với các Tổng công ty là đòi hỏi rất cấp bách và quan trọng, nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi, thông thoáng cho các Tổng công ty phát triển có hiệu quả, hạn chế và khắc phục tình trạng gây phiền hà, ách tắc.

Muốn vậy cần giải quyết những vấn đề cơ bản sau:

Đưa các Tổng công ty 90,91 về cho các Bộ, tỉnh, thành phố quản lý trực tiếp.

Bộ chuyên ngành, tỉnh, thành phố chịu trách nhiệm trước chính phủ về quản lý Nhà nước đối với các Tổng công ty, đặc biệt là xây dựng định hướng chiến lược kế hoạch phát triển, đầu tư đổi mới công nghệ, đào tạo cán Bộ. Các Bộ quản lý Nhà nước theo chức năng của mình, cần quy định quy chế quản lý Nhà nước về lĩnh vực mà Bộ phụ trách đối với Tổng công ty biết thực hiện. Có những vấn đề liên ngành thì chính phủ uỷ quyền cho một Bộ tổng hợp chủ trì để phối hợp các Bộ liên quan để giải quyết như là các Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ tài chính, văn phòng Chính phủ, Bộ Thương mại, Ngân hàng Nhà nước và Tổng cục hải quan...

Cán Bộ quản lý Nhà nước cần quan tâm đến các hoạt động sau đây.

  • Xây dựng đúng và sát thực tiễn các định hướng phát triển chính sách vĩ mô các tiêu chuẩn, định mức, chế độ quản lý Nhà nước đối với Tổng công ty. Có như vậy mới thực hiện việc quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp (Tổng công ty) bằng các công cụ, chính sách của chính phủ, của Nhà nước.
  • Hướng dẫn cụ thể, đúng đắn cho các doanh nghiệp (Tổng công ty) trong quá trình thực hiện nhằm phát huy được sức sống và sức chiến đấu của chính sách tiêu chuẩn, định mức, chế độ trong thực tiễn, chính sách, chế độ là quy định cụ thể hành lang pháp lý theo nghị quyết của Đảng của Quốc hội và pháp luật.
  • Thực hiện nghiêm túc chế độ kiểm tra và thanh tra, việc thanh tra kinh tế tài chính đối với Tổng công ty hoặc doanh nghiệp thành viên không quá một lần trong năm, thanh tra phải có kết luận đúng, rõ ràng. Trường hợp đã phát hiện có đủ căn cứ là vi phạm pháp luật thì các cơ quan có thẩm quyền quyết định thanh tra đột xuất theo quyết định của chính phủ.

Để tiến tới thành lập các tập đoàn kinh doanh mạnh, ổn định, vững chắc, trong năm 1999 - 2000, Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Trung ương đã đặt mục tiêu là tập trung nghiên cứu sửa đổi luật doanh nghiệp, luật phá sản, luật khuyến khích đầu tư trong nước và các Nghị định 39/CP và Điều lệ mẫu tổ chức hoạt động của Tổng công ty Nhà nước, 50/CP về thành lập tổ chức lại, giải thể các DNNN 59/CP về ban hành quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với DNNN 56/CP về DNNN hoạt động công ích; 92/CP về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định 42/CP, 93/CP về việc sửa đổi bổ sung một số điều của quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định 43/CP.

Những biện pháp này sẽ góp phần đổi mới và hoàn thiện mô hình tổ chức hoạt động của các Tổng công ty Nhà nước.

0