06/05/2018, 09:03

Phát biểu cảm nghĩ về truyện Thạch Sanh – Văn mẫu hay lớp 6

Xem nhanh nội dung Phát biểu cảm nghĩ về truyện cổ tích Thạch Sanh – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Tiền Giang “Thạch Sanh” là một câu chuyện cổ tích đầy ý nghĩa. Truyện kể về một đứa bé mồ ...

Xem nhanh nội dung

Phát biểu cảm nghĩ về truyện cổ tích Thạch Sanh – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Tiền Giang

“Thạch Sanh” là một câu chuyện cổ tích đầy ý nghĩa.

Truyện kể về một đứa bé mồ côi tên là Thạch Sanh, thấy Thạch Sanh khỏe mạnh, chăm chỉ, không người thân thích, Lí Thông – một người hàng rượu, giả vờ kết nghĩa anh em để lợi dụng. Năm ấy, đến lượt Lý Thông phải vào đền cho chằn tinh ăn thịt, hắn liền nghĩ kế lừa Thạch Sanh vào đền thế mạng cho mình.

Thạch Sanh giết chết chằn tinh. Lí Thông lại lừa chàng bỏ trốn để hắn đem đầu vào nộp cho vua, lĩnh thưởng. Nhà vua có nàng công chúa đã đến tuổi kén chồng, trong ngày hội kén chồng, công chúa bị một con đại bang khổng lồ cắp đi. Con đại bàng ấy bị Thạch Sanh bắn bị thương,  chàng lần theo vết máu biết được nơi ẩn náu của đại bàng. Nhà vua mất công chúa thì vo cùng đau khổ, liền sai Lí Thông đi tìm hứa gả công chúa cho. Lý Thông đến nhờ Thạch Sanh giúp rồi sau khi cứu được công chúa, hắn nhốt chàng dưới hang sâu.

Thạch Sanh giết đại bàng và cứu được cả con vua Thủy Tề vốn bị đại bàng bắt được từ lâu. Theo chân thái tử, chàng được mời xuống thủy cung và được vua thủy tề khoản đãi rất hậu, hàng còn được tặng một cây đàn thần rồi trở lại gốc đa. Còn nàng công chúa, kể từ khi được cứu về, nàng không cười cũng không nói cho tới khi nghe được tiếng đàn của Thạch Sanh, nàng mới cất tiếng nói. Thạch Sanh được minh oan còn mẹ con nhà LÌ Thông thì bị xử tội, họ bị sét đánh chết và hóa thành bọ hung. Chàng Thạch Sanh được vua gả con gái cho khiến các nước chư hầu tức giận mang quân sang đánh, chàng liền lấy đàn ra gảy khiến quân địch quy hàng. Sau đó, nhà vua đã nhường ngôi báu cho chàng con rể dũng cảm. Câu chuyện đã ca ngợi chàng trai Thạch Sanh thật thà, dũng cảm, giỏi giang khi diệt trừ yêu quái, từ đó đưa Thạch Sanh trở thành một tấm gương sang để thiếu nhi cũng như thanh niên noi theo.

Bên cạnh đó, câu chuyện cũng hàm chứa ý nghĩa sâu xa về dạo lý trong cuộc sống: ở hiền gặp lành, ác giả ác báo, khuyên con người ta sống lương  thiện thì ắt sẽ được đền đáp, trời không phụ lòng người, còn nếu gian nanh, xảo trá ắt bị trừng phạt giống như mẹ con Lý Thông vậy.

Phát biểu cảm nghĩ về truyện cổ tích Thạch Sanh – Bài làm 2

Truyện cổ tích Thạch Sanh bắt nguồn từ một cốt truyện dân gian phổ biến trên thế giới ngợi ca người dũng sĩ diệt chằn tinh, diệt đại bàng, cứu người bị hại. Khi "nhập cư" vào mảnh đất trí tuệ và tâm hồn Việt Nam, truyện cổ tích ấy nảy cành, thêm lá, nở hoa, kết trái, mở rộng thêm nội dung, ý nghĩa. Chàng dũng sĩ ấy có quê quán cụ thể : tỉnh miền núi Cao Bằng, mang tên cụ thể : Thạch Sanh với ý nghĩa "người con được sinh ra từ đá". Chàng lại có nguồn gốc sâu xa : vốn là thái tử con Ngọc Hoàng Thượng đế… Do đó, câu chuyện về dũng sĩ Thạch Sanh, không chí ca ngợi công lao diệt loài vật ác trên núi, trên trời mà còn diệt cả ác quỷ dưới nước, đấu tranh vạch mặt kẻ vong ân bội nghĩa, chống ngoại xâm, bảo vệ non sông Tổ quốc, vẻ đẹp tài năng, đạo đức của Thạch Sanh đậm đà bản chất Việt Nam. Những chiến công của Thạch Sanh thể hiện ước mơ, niềm tin về đạo đức, công lí xã hội và lí tưởng nhân đạo, yêu hoà bình của nhân dân ta. Những giá trị nội dung ấy của tác phẩm được thể hiện bằng nhiểụ tình huống, chi tiết và hình ảnh thần kì độc đáo như : sự ra đời và lớn lên của Thạch Sanh, cung tên vàng, cây đàn thần và niêu cơm thần. Thêm nữa, cùng với văn bản kể miệng bằng văn xuôi, cổ tích Thạch Sanh còn được sáng tác bằng một truyện thơ Nôm, theo thể lục bát ra đời khoảng cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Tác phẩm toát ra bao nhiêu ý nghĩa nội dung, hiển hiện bao nhiêu hình ảnh nghệ thuật độc đáo. Nổi bật nhất trong truyện kể văn xuôi cũng như trong truyện thơ Nôm Thạch Sanh là hình ảnh cây đàn, tiếng đàn thần và niêu cơm thần. Có thể nói đó là "tiếng đàn hoá giải", đó là "niêu cơm nhân nghĩa".

1. Trước hết, chúng ta hãy lắng nghe và suy nghĩ về tiếng đàn của Thạch Sanh. Chẳng rõ, sau khi nhận cây đàn kí niệm của vua Thuỷ Tề, trở lại dương thế, tiếp tục sống cuộc đời lam lũ, Thạch Sanh đã luyện được phép màu kì diệu nào mà khi tiếng đàn cất lên ở trong ngục, nó nỉ non, thánh thót, nhiều cung, nhiều nghĩa đến thế. Truyện văn xuôi chỉ kể ngắn gọn: "Thạch Sanh ngồi trong ngục tối, đem đàn của vua Thuỷ Tề cho ra gảy". Còn truyện thơ thì miêu tả tiếng đàn ấy rất cụ thể:

Cho mày vinh hiển dự mình quyền sang?

Đàn kêu: Ai chém xà vương 

Đem nàng công chúa triều đường về đây?

Đàn kêu: Hỡi Lí Thông mày 

Cớ sao phụ nghĩa lại rày vong ân?

Đàn kêu: Sao ở bất nhân 

Biết ăn quả lại quên ân người trồng?

Nhân danh công lí, tiếng đàn ấy đã thay lời nạn nhân oan uổng nói to lên, vang lên tất cả sự thật, bênh vực người có công, tố cáo kẻ gian xảo, cướp công, gây tội ác, bất nghĩa, bất nhân. Âm thanh, nhịp phách của tiếng đàn rắn rỏi, mạnh mẽ, dứt khoát,… như tiếng vị quan toà phân xử rạch ròi như lưỡi rìu, mũi tên chàng dũng sĩ nhằm giữa mặt kẻ quyền cao chức lớn, nhưng chúng là thủ phạm gieo đau khổ cho người dân lương thiện. Tiếng đàn của Thạch Sanh vang lên giữa thanh thiên bạch nhật, nói rõ tất cả mọi lẽ đời ân oán, nghĩa tình, vọng từ ngục tối, vọng khắp kính thành, vọng tới cung vua. Nghe tiếng đàn, nàng công chúa bấy lâu im tiếng, nay "bỗng cười nói vui vẻ". Thạch Sanh được gặp nhà vua. Tiếng đàn ấy dã hoá giải mọi bi kịch của cuộc đời chàng Thạch Sanh dũng sĩ – nghệ sĩ. Tên Lí Thông độc ác bị trừng phạt. Công lao, tài đức của Thạch Sanh được đền đáp. Tiếng đàn có phép thần thông kì diệu, hay đó chính là khát vọng công lí, khát vọng nhân nghĩa ngàn đời của dân tộc ta ? Trong các truyện cổ tích khác, niềm khát vọng dó thường được biểu hiện bằng hình tượng Tiên, Bụt, hoặc những biến hoá huyền ảo, hoang đường. Ở truyện Thạch Sanh, tác giả dân gian sử dụng "tiếng đàn" biết nói, nói thấu tình, đạt lí để đấu tranh cho lẽ phải, giành lấy hạnh phúc. Hình tượng "tiếng dàn" vừa gần gũi vừa độc đáo và dậm chất nghệ sĩ.

Độc đáo và nghệ sĩ hơn nữa là từ trong nhà ngục, từ tay chàng dũng sĩ – tù nhân đơn độc, tiếng đàn ra giữa chiến trường, từ tài năng, đức độ của một phò mã, tấu lên sức mạnh chính nghĩa, khát vọng hoà bình. Trước quân tướng của mười tám nước chư hầu đầy hận thù và tham vọng xâm lược, thay mặt nhà vua, thay mặt triều đình và cả dân tộc, Thạch Sanh một mình cầm cây đàn ra trước quân giặc, tấu lên khúc nhạc thần kì. "Tiếng đàn của chàng vừa cất lên thì quân sĩ mười tám nước bủn rủn tay chân, không còn nghĩ được gì tới chuyện đánh nhau nữa". Lời kể chỉ ngắn gọn một câu mà gợi cho người đọc, người nghe bao nhiêu tưởng tượng, suy nghĩ. Tiếng đàn của Thạch Sanh đã ngân vang những cung bậc gì mà kì diệu đến thế, có sức thuyết phục con người đến thế ? Phải chăng đấy là tiếng nói nhân nghĩa, yêu chuộng hoà bình của cả triều đình, cả dân tộc ta lúc bấy giờ. Trước kia, tiếng đàn của Thạch Sanh cất lên từ ngục tối, như tiếng én gọi xuân, thức dậy tâm hồn, tình yêu của nàng công chúa. Nó hoá giải bi kịch riêng cho chàng dũng sĩ. Giờ đây, tiếng đàn ấy ngân vang "như nước cành dương tưới nhuần" (lời miêu tả tiếng đàn trong truyện thơ Nôm Thạch Sanh). Như vậy, tiếng đàn Thạch Sanh đã hoá giải một tình thế khó khăn, nguy cấp – có thể coi là một bi kịch của cả dân tộc. Sáng tạo ra hình tượng tiếng đàn có sức mạnh chiến thắng như thế, phải chăng các tác giả truyện cổ tích Thạch Sanh (cả trong truyện kể và truyện thơ) muốn ngợi ca một chiến lược quan trọng của dân tộc ta trong công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm? Đó là nghệ thuật "mưu phạt tâm công" – đánh vào lòng người, dùng văn chương, nghệ thuật hỗ trợ cho thanh gươm, khẩu súng. Từ "tiếng đàn Thạch Sanh", chúng ta nhớ tới bài thơ Nam Quốc sơn hà đời Lí, những bức thư Nguyễn Trãi thuyết hàng giặc Minh đời Lê và biết bao tác phẩm văn nghệ khác ở các giai đoạn lịch sử sau này. "Tiếng đàn Thạch Sanh", binh pháp Việt Nam kì diệu biết bao!

2. Niêu cơm nhân nghĩa

Chiến thắng của tiếng đàn Thạch Sanh mới chỉ ở chặng đầu. Quân chư hầu mười tám nước bằng lòng lui binh. Các hoàng tử cởi giáp xin hàng. Nhưng đội ngũ vẫn trùng trùng điệp điệp trước kinh thành. Làm thế nào đây ? Phải cấp lương thực để cho chúng no bụng, vui vẻ về nước chứ. Lúc bấy giờ nhà vua lo lắng. Cả triều đình lo lắng, nghĩ kế, bày mưu. Thạch Sanh chẳng nghĩ nhiều, chàng sai dọn một bữa cơm thết đãi kẻ bại trận. Bữa cơm… chỉ vẻn vẹn có "một niêu cơm tí xíu" khiến lũ giặc "bĩu môi", như chế giễu, như hỏi han, chất vấn. Thạch Sanh "đố họ ăn hết và hứa sẽ trọng thưởng". Một câu đố – một bài toán, lại xuất hiện "bài toán" trong tác phẩm. Đơn giản quá, dễ dàng quá, cái "bài toán niêu cơm". Vậy mà, hàng vạn quân của mười tám nước chư hầu không giải được bài toán ấy. Chúng đành phải "cúi đầu lạy tạ vợ chồng Thạch Sanh rồi kéo nhau về nước". Chao ôi ! Niêu cơm của Thạch Sanh, cái vật dụng đất nung nhỏ bé, bình thường mà sao có sức chứa lớn lao phi thường như vậy. Thật lạ lùng và thú vị ! Tôi chợt nhớ thành ngữ xưa "nước lọ, cơm niêu" cha ông ta dùng dể thở than về cuộc sống thiếu thốn, đói nghèo từng đày đoạ bao kiếp người lao động. 

Rồi nhớ, một lần nhà thơ Xuân Diệu giải thích câu tục ngữ "Ăn trông nồi, ngồi trông hướng", rằng : "Tại sao phải ăn trông nồi ? Vì nếu không "trông nồi" để liệu mà xới cơm, bớt miệng thì, con ơi, cháu ơi, bay sẽ ăn hết cả phần ông bà, cha mẹ, anh chị em ! Khổ cực thế ! Bốn nghìn năm nay, cái nồi cơm, cái niêu cơm Việt Nam nó nhỏ lắm, nó bé lắm. Nhưng cũng bốn nghìn năm nay, dân tộc Việt Nam chúng ta biết dạy nhau, nhường nhịn nhau để sống, để đánh giặc, giữ nước, dựng nước…". Và tôi nhớ lại truyền thuyết về đạo sĩ Nguyễn Minh Không triều đại nhà Lí. Đạo sĩ ở ẩn trong rừng, dưới túp lều tranh, ngày ngày chỉ ăn một niêu cơm, vẫn khoẻ mạnh, tìm thuốc, chữa bệnh cho dân quanh vùng. Triều đình cử một đoàn sứ giả đến mời Minh Không về chữa bệnh cho vua. Khách có hơn chục người. Minh Không chỉ thổi một niêu cơm đãi. Đoàn người ăn mãi không hết, niêu cơm vơi rồi lại đầy. Chẳng biết cái "niêu cơm" trong thành ngữ, tục ngữ, trong truyền thuyết xa xưa và trong sự cảm nhận của thi sĩ Xuân Diệu ngày nay có liên quan gì với "niêu cơm" của Thạch Sanh không mà sao nó trở thành một hình tượng kì vĩ trong tâm thức biết bao thế hệ người Việt Nam, từ người nghệ sĩ bình đàn đến những nhà văn, nhà thơ bác học đến như vậy ? Dù nguyên cớ gì thì "niêu cơm" nhỏ xinh ấy đã trở thành một hình tượng thẩm mĩ đặc sắc khiến cho câu chuyện "dũng sĩ giết chằn tinh trừ hại cho dân", "dũng sĩ diệt đại bàng cứu người đẹp" trong nhiều thần thoại, cổ tích của thế giới trở thành cổ tích Thạch Sanh đậm dà chất Việt Nam, đích thực là sản phẩm tinh thần dộc đáo của trí tuệ, tâm hồn Việt Nam. Khác với tiếng đàn, niêu cơm chẳng nói nửa lời, cứ lặng lẽ vơi rồi đầy, giúp cho một người no nê, sảng khoái, rồi mười người, trăm ngàn người, biến họ từ những kẻ hung dữ, kiêu ngạo thành người hiền lành, phục thiện. Từ sản vật bình thường, niêu cơm đem lại cho Thạch Sanh sức mạnh tinh thần phi thường, to lớn. Nó tượng trưng cho lòng bao dung, độ lượng, chí tình, chí nghĩa của chàng dũng sĩ xuất thân dân dã. Nó bắt nguồn từ truyền thống khoan hồng, từ chủ nghĩa nhân đạo Việt Nam mà biết bao anh hùng cứu nước từng thực hiện và nhắc nhở. Sau chiến thắng giặc Minh, Nguyễn Trãi đã viết (và đã thực hiện): "Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc ; Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run…" (Bình Ngô đại cáo).

Khi lãnh đạo nhân dân ta chống giặc Mĩ xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc : Nếu quân giặc từ bỏ ý chí xâm lược, thì dân tộc ta sẽ trải chiếu hoa tiễn họ về nước. Niêu cơm Thạch Sanh không chỉ là biểu tượng cho đạo lí  Việt Nam trong công cuộc giữ nước mà còn là khát vọng nghìn đời của cả dân tộc ta vể miếng ăn, về của cải vạt chất có để nuôi sống mình, gia đình mình và để cho kẻ thù nể sợ. Sáng tạo ra hình tượng "niêu cơm" ở cuối câu chuyện, tác giả truyện cổ tích Thạch Sanh thực sự rất am hiểu, rất mến yêu và trân trọng quê hương, đồng ruộng, hạt gạo, nồi cơm, tâm hồn, khát vọng cùng biết bao giá trị khác nữa trên mảnh đất và trong tâm hồn Việt Nam. Cái thời "nước lọ, cơm niêu" đói khổ đã qua rồi. Ngày nay, ở nhiều khách sạn của nhiều thành phố Việt Nam, "cơm niêu" xuất hiện trở lại, như một biểu tượng của đặc sản cao cấp Việt Nam, thật là thú vị!

Không biết, khi mời khách, nhất là khách nước ngoài, các nhà hàng có kể cho họ nghe về cái "niêu cơm" Thạch Sanh huyền thoại – sản phẩm thần kì của mảnh đất trí tuệ và tâm hồn dân tộc ta ? Những hình tượng thẩm mĩ độc dáo một khi bắt nguồn từ cuộc sống, nhất là cuộc sống đẫm mồ hôi và nước mắt của người lao động, qua sự sáng tạo tài tình của người nghệ sĩ thì nó sẽ trẻ mãi không già, sẽ trường tồn và trở đi trở lại với chúng ta trong cuộc sống, cũng như trong lòng người.

So với những truyện cổ tích quen thuộc trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam như Chử Đồng Tử, Tấm Cám, Cây khế, Trầu can, Sọ Dừa,… cổ tích Thạch Sanh có nội dung, kết cấu, số phận, tính cách nhân vật phong phú, đa dạng hơn nhiều. Nhân vật Thạch Sanh trong truyện vừa mang những nét đặc trưng của các nhân vật dũng sĩ trong anh hùng ca thời thị tộc – bộ lạc, vừa có những nét tính cách và số phận tiêu biểu cho loại nhân vật trong cổ tích thần kì ra đời trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp. Vì thế, Thạch Sanh vừa là biểu tượng cho con người lương thiện, nêu cao điều thiện, để đấu tranh diệt trừ cái ác vừa là người anh hùng tài năng, trí dũng vẹn toàn chiến đấu chống ngoại xâm, giữ yên bờ cõi. Đỉnh cao của phẩm chất nhân nghĩa, anh hùng trong Thạch Sanh phải chăng là tiếng đàn và niêu cơm ? Kéo tấm màn huyền thoại, hoang đường, sương khói kì ảo của trí tưởng tượng dân gian, chúng ta nhìn thấy được những chứng tích lịch sử, lắng nghe được những tiếng nói cua cha ông về khát vọng hoà bình, no ấm tự ngàn đời nay vọng lại. Tiếng đàn Thạch Sanh hay chính là văn hoá, văn học nghệ thuật Việt Nam có khả năng hoá giải mọi bi kịch ? Niêu cơm Thạch Sanh, hay chính là hạt thóc, nồi cơm, của cải vật chất trên mảnh đất Việt Nam đã từng nuôi lớn dân tộc, đã từng chiến thắng ngoại xâm và sẽ mãi mãi đem lại ấm no, hạnh phúc cho mỗi gia đình, cho mọi người Việt Nam chúng ta ? Ôi, tiếng đàn kì diệu, niêu cơm nhỏ bé mà có sức chứa vô hạn, vô biên, đáng yêu, đáng nhớ làm sao! 

Phát biểu cảm nghĩ của em về truyện Thạch Sanh – Bài làm 3

Trong truyện cổ nước ta thường có những nhân vật độc đáo, tiêu biểu cho vẻ đẹp của trí tuệ, tài năng và tâm hồn của con người Việt Nam.

Thạch Sanh là truyện kể về người dũng sĩ chém chằn tinh, diệt đại bàng, cứu người bị hại. Tiếng đàn của chàng vạch mặt kẻ vong ơn bội nghĩa và làm nhụt chí quân xâm lược.

Truyện thể hiện ước mơ, niềm tin về đạo đức, công lí xã hội và lí tưởng nhân nghĩa, yêu hòa bình của nhân dân ta. Trong truyện có nhiều chi tiết thần kì độc đáo và giàu ý nghĩa (như sự ra đời kì lạ của Thạch Sanh, cung tên vàng, cây đàn thần, niêu cơm thần…). Có thể nói, trong những nhân vật chính diện mà truyện cổ tích Việt Nam xây dựng nên thì Thạch Sanh là nhân vật đẹp nhất và tiêu biểu nhất.

Sự ra đời và lớn lên của Thạch Sanh có những nét vừa bình thường vừa khác thường.

Xét về nguồn gốc thì Thạch Sanh không phải người thường. Theo truyện kể thì vợ chồng nhà họ Thạch (ở Cao Bằng), tuổi đã già mà chưa có con. Thấy họ tốt bụng, Ngọc Hoàng sai thái tử xuống trần đầu thai làm côn. Bà mẹ mang thai nhiều năm mới sinh ra Thạch Sanh. Lớn lên, chàng lại được các vị thần dạy cho đủ các môn võ nghệ và mọi phép thần thông. Như vậy Thạch Sanh là "người trời".

Những chi tiết về sự ra đời và lớn lên khác thường của Thạch Sanh có ý nghĩa tô đậm tính chất kì lạ, đẹp đẽ cho nhân vật lí tưởng, làm tăng sức hấp dẫn cho câu chuyện. Nhân dân quan niệm rằng, nhân vật ra đời và lớn lên kì lạ như vậy tất sẽ có khả năng, phẩm chất phi thường và sẽ lập được nhiều chiến công lừng lẫy.

Bình thường ở chỗ Thạch Sanh là con của một gia đình nông dân tốt bụng, sống nghèo khổ bằng nghề kiếm củi. Khi đầu thai vào nhà họ Thạch, Thạch Sanh đã thành người cõi trần, có cha mẹ, họ tên, quê quán, nghề nghiệp cụ thể, rõ ràng. Cuộc đời và số phận Thạch Sanh rất gần gũi với nhân dân.

Thạch Sanh mồ côi cha từ khi còn ở trong bụng mẹ, rồi vừa mới lớn đã mất luôn cả mẹ. Chàng sống một thân một mình từ tấm bé. Đó là đặc điểm có tính phổ biến của các nhân vật chính diện trong truyện cổ tích thần kì. Ngoài đặc điểm ấy, nhân vật Thạch Sanh còn có tính chất của nhân vật thần thoại và nhân vật anh hùng trong truyền thuyết.

Thạch Sanh sống trong túp lều cũ ở dưới gốc đa. Cả gia tài chỉ có một lưỡi búa của cha để lại. Thân cô, thế cô, chàng phải chịu bao khó khăn thử thách của cuộc đời.

Đầu tiên là chuyện chàng bị mẹ con Lí Thông lừa đi canh miếu thờ để thế mạng. Bằng tài năng của mình, Thạch Sanh đã diệt được chằn tinh.

Sau đó là chuyện công chúa bị đại bàng khổng lồ quắp đi. Thạch Sanh đã xuống hang tiêu diệt đại bàng, cứu được công chúa. Chàng bị Lí Thông cố tình hạm hãi, lấp mất cửa hang. Trong khi tìm lối thoát, chàng lại cứu được con vua Thủy Tề và được tặng cây đàn thần. Trở về gốc đa, bị hồn chằn tinh và đại bàng báo thù, Thạch Sanh bị bắt hạ ngục. Nỗi oan của chàng được giải. Mẹ con Lí Thông độc ác bị trừng trị, biến thành bọ hung. Thạch Sanh được kết hôn với công chúa. Hoàng tử mười tám nước chư hầu trước kia bị công chúa từ hôn lấy làm tức giận, họp nhau kéo quân sang đánh. Thạch Sanh lấy đàn thần ra gảy, quân sĩ mười tám nước rút lui. Thạch Sanh và công chúa từ đó sống hạnh phúc bên nhau.

Trong truyện, khó khăn, trắc trở cứ tăng dần, thử thách sau bao giờ cũng gay go hơn thử thách trước. Thạch Sanh đã vượt qua tất cả nhờ tài năng, phẩm chất và sự giúp đỡ của các phương tiện thần kì.

Qua thử thách, Thạch Sanh đã dần dần bộc lộ những phẩm chất quý báu. Đó là tính thật thà chất phác, tinh thần dũng cảm vì nghĩa quên thân, lòng nhân ái và yêu chuộng hòa bình.

Chiến công, sự nghiệp to lớn của Thạch Sanh gắn liền với tài năng và phẩm chất đẹp đẽ của chàng. Tác giả dân gian đã phản ánh điều ấy rất thành công bằng nghệ thuật hoang đường, kì ảo của truyện cổ tích.

Ngoại hình của Thạch Sanh được miêu tả đơn sơ nhưng rất rõ nét. Đó là một chàng trai khôi ngô, khỏe mạnh, quanh năm mình trần, đóng khố. Gia tài của chàng chỉ có hai thứ tầm thường là lưỡi búa đốn củi và túp lều nát dưới gốc đa.

Tuy nghèo nhưng Thạch Sanh có đủ ba điều quý giá ban đầu: sức khỏe, tài năng, nghị lực; có công cụ lao động và mảnh đất quê hương để từ đó làm nên tất cả.

Nhờ cây búa của cha để lại và phép thuật mà các vị thần dạy cho, Thạch Sanh đã chém được đầu chằn tinh. Sau khi đốt xác quái vật, chàng có thêm chiếc cung tên bằng vàng. Thạch Sanh đã dùng cung tên diệt đại bàng, cứu công chúa và Thái tử con vua Thủy Tề. Chàng được vua Thủy Tề tặng cho cây đàn thần.

Ở nhân vật Thạch Sanh, yếu tố bình thường gắn liền với yếu tố phi thường, sức người kết hợp với sức thần một cách chặt chẽ, hài hòa.

Những lần bị Lí Thông và yêu quái hãm hại, Thạch Sanh không được Tiên, Bụt hiện lên giúp đỡ nhưng chàng lại có trong tay những phương tiện kì diệu (cung vàng, đàn thần). Tài năng của chàng là tài năng của con người kết hợp với sức mạnh của thần thánh.

Tiếng đàn thần vô cùng kì diệu đã giải oan cho Thạch Sanh, vạch tội Lí Thông, làm cho công chúa hết câm, khiến cho đội quân xâm lược của mười tám nước phải mềm lòng nhụt chí, buông giáo xin hàng. Đó là tiếng nói nhân nghĩa và công lí, đại diện cho cái thiện, cho tinh thần yêu chuộng hòa bình của nhân dân.

Với cây đàn thần trong tay, Thạch Sanh được miêu tả như một nghệ sĩ tài hoa, một anh hùng trong cuộc đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác để bảo vệ cuộc sống yên vui cho mọi người.

Giặc chấp nhận lui binh, được Thạch Sanh dọn một bữa cơm thết đãi. Niêu cơm thần kì của Thạch Sanh cứ vơi lại đầy, làm cho quân sĩ mười tám nước lúc đầu coi thường và chế giễu, sau đó phải ngạc nhiên khâm phục. Niêu cơm thần kì ấy tượng trưng cho sức mạnh tiềm tàng và tấm lòng nhân đạo cao cả, rộng lớn của nhân dân ta.

Kết thúc truyện, Thạch Sanh được kết hôn cùng công chúa và lên ngôi vua. Đây là phần thưởng lớn lao, xứng đáng với những khó khăn, thử thách và tài năng của Thạch Sanh. Kết thúc có hậu ấy thể hiện quan điểm ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác, đồng thời phản ánh ước mơ công lí, ước mơ đổi đời của người lao động thuở xưa.

Cảm nghĩ của em về truyện cổ tích Thạch Sanh – Bài làm 4

Để nói về tài năng, trí tuệ và tâm hồn của con người Việt Nam, ông cha ta đã sáng tạo ra rất nhiều tác phẩm tiêu biểu. Không thể không kể đến truyện cổ tích Thạch Sanh, một câu truyện cổ tích kỳ diệu nhất. Truyện thể hiện ước mơ, niềm tin vào công lý và tư tưởng nhân nghĩa yêu chuộng hòa bình của dân tộc ta.

Một đôi vợ chồng tiều phu tốt bụng mãi mà không có được một mụn con. Ngọc Hoàng thấy vậy thương tình nên cho thái tử xuống đầu thai làm con của họ. Bà mẹ mang thai nhiều năm mới sinh ra được một đứa bé, đặt tên là Thạch Sanh. Lớn lên, chàng lại được các vị thần dạy cho đủ các môn võ nghệ, các phép thần thông biến hóa. Sự ra đời và trưởng thành của Thạch Sanh đã làm tăng thêm sức hấp dẫn cho câu truyện. Nó có ý nghĩa tô đậm chất kỳ lạ, đẹp đẽ cho nhân vật.

Là con nhà trời, nhưng chàng lại sống trong thân phận một người dân nghèo. Cha mẹ mất sớm nên chàng phải chịu bao khó khăn thử thách của cuộc sống. Chàng vào rừng đốn củi và sống trong một túp lều dưới gốc đa. Chàng kết thân với Lý Thông và coi mẹ con Lý Thông như người thân ruột thịt của mình. Thế nhưng, chàng lại bị chính mẹ con Lý Thông lừa đi làm vật thế mạng cho chằn tinh ăn thịt. Bằng tài năng của mình, chàng đã diệt được con chằn tinh quái ác. Chi tiết này thể hiện sự dũng cảm, tài giỏi không sợ bất cứ điều gì của Thạch Sanh.

Sau đó ít lâu, công chúa bị một con đại bàng khổng lồ quắp đi. Chàng không ngại khó khăn, nguy hiểm một mình vào hang cứu công chúa. Một lần nữa, chàng lại bị Lý Thông hãm hại. Hắn lấp cửa hang một mình đưa công chúa về cung nhận thưởng. Trong khi tìm lối thoát, chàng đã cứu được con vua Thủy tề và chàng được tặng cây đàn. Trở về gốc đa sống cuộc sống bình thường. Thế nhưng, chàng lại bị hồn của đại bàng và chằn tinh hãm hại. Thạch Sanh bị bắt vào ngục tối. Bằng cây đàn được tặng, chàng đã giúp được công chúa bị câm có thể nói trở lại, đồng thời giải oan cho mình, đưa tội ác của Lý Thông ra ánh sáng. Ngạc nhiên thay, tiếng đàn còn khiến cho đội quân xâm lược của 18 nước phải mềm lòng nhụt trí, buông đao xin hàng. Đó là tiếng nói nhân nghĩa và công lý, đại diện cho cái thiện, tinh thần yêu chuộng hòa bình của nhân dân ta.

Niêu cơm mà Thạch Sanh dùng để thết đãi 18 nước thật kỳ lạ, cứ vơi lại đầu làm cho các quân sĩ chuyển từ khinh thường chê cười sang ngạc nhiên, khâm phục. Niêu cơm thần kỳ ấy tượng trưng cho sức mạnh tiềm tàng và tấm lòng nhân đạo cao cả, rộng lớn của dân ta.

Chàng thật thà, mộc mạc nhưng lại có một sức mạnh phi thường có thể chém chết chằn tinh, tiêu diệt đại bàng cứu người. Chàng còn biết đánh đàn để vạch trần tội ác của kẻ vong ơn, lấy lại công bằng cho chính mình. Thông qua các nhân vật trong câu truyện, tác giả thể hiện ước mơ, niềm tin về đạo đức, công lý xã hội và lý tưởng nhân nghĩa, yêu hòa bình của nhân dân ta. Truyện có nhiều chi tiết độc đáo, giàu ý nghĩa. Có thể nói, trong những nhân vật chính diện mà truyện cổ tích Việt Nam đã xây dựng thì Thạch Sanh là nhân vật đẹp nhất, tiêu biểu nhất.

Cái kết có hậu của câu truyện là ao ước của nhiều người dân nghèo khổ có tấm lòng lương thiện. Câu truyện một lần nữa thể hiện lý tưởng sống muôn đời của ông cha ta “ở hiền gặp lành”.

Thu Thủy (Tổng hợp)

0