Phát biểu cảm nghĩ về bài “Sài Gòn tôi yêu” – Văn mẫu lớp 7
Phát biểu cảm nghĩ về bài “Sài Gòn tôi yêu” – Văn mẫu lớp 7 Phát biểu cảm nghĩ về bài "Sài Gòn tôi yêu" – Bài số 1 Minh Hương yêu Sài Gòn với tất cả những cái đáng yêu, cả những điều không mấy dễ chịu của nó. Dường như hình ảnh Sài Gòn đã ăn sâu vào trong tiềm thức, trở thành một ...
Phát biểu cảm nghĩ về bài “Sài Gòn tôi yêu” – Văn mẫu lớp 7
Phát biểu cảm nghĩ về bài "Sài Gòn tôi yêu" – Bài số 1
Minh Hương yêu Sài Gòn với tất cả những cái đáng yêu, cả những điều không mấy dễ chịu của nó. Dường như hình ảnh Sài Gòn đã ăn sâu vào trong tiềm thức, trở thành một phần máu thịt không thể thiếu trong cuộc sống của ông.
Sài Gòn tôi yêu là một bài tuỳ bút nằm trong tập tuỳ bút – bút kí Nhớ… Sài Gòn tập I của Minh Hương. Sài Gòn tôi yêu là một cảm nhận sâu sắc và một mối tình đằm thắm chân tình của nhà văn với con người và mảnh đất mà ông gắn bó suốt mấy chục năm.
Bài tuỳ bút mở đầu bằng những ấn tượng chung về Sài Gòn: Sài Gòn cứ trẻ hoài như một cây tơ đương độ nõn nà, trên đà thay da, đổi thịt, miễn là cư dân ngày nay và cả ngày mai biết cách tưới tiêu, chăm bón, trận trọng giữ gìn cái đô thị ngọc ngà này. Một sự cảm nhận thật độc đáo, với hình ảnh so sánh liên tưởng đầy bất ngờ, thú vị.
Từ ấn tượng chung, tác giả đột ngột chuyển sang bày tỏ trực tiếp tình yêu Sài Gòn của mình:
Tôi yêu Sài Gòn da diết… Tôi yêu trong nắng sớm, một thứ nắng ngọt ngào, vào buổi chiều lộng gió nhớ thương, dưới những cây mưa nhiệt đới bất ngờ. Tôi yêu thời tiết trái chứng với trời đang âm u buồn bã, bỗng nhiên trong vắt lại như thuỷ tinh. Tôi yêu cả những đêm khuya thưa thớt tiếng ồn. Tôi yêu phố phường náo động, dập dìu xe cộ vào những giờ cao điểm. Yêu cả cái tĩnh lặng vào buổi sáng tinh sương với làn không khí mát dịu, thanh sạch trên một số dường còn những cây xanh che chở.
Ngay trong phần đầu của bài tuỳ bút, tác giả đã bộc lộ tình yêu nồng nhiệt, thiết tha của mình với thành phố Sài Gòn. Điệp từ tôi yêu được điệp lại ở đầu các câu văn như ngân đi ngân lại điệp khúc tình yêu, như nhấn thêm vào bản đàn tâm trạng rộn rã yêu thương của nhà văn.
Minh Hương yêu Sài Gòn với tất cả những cái đáng yêu, cả những điều không mấy dễ chịu của nó. Dường như hình ảnh Sài Gòn đã ăn sâu vào trong tiềm thức, trở thành một phần máu thịt không thể thiếu trong cuộc sống của ông.
Tình yêu Sài Gòn sâu nặng khiến nhà văn có được cảm nhận thật chính xác và tinh nhạy về thành phố. Con mắt tinh tường của nhà văn nhận ra cả cái sắc nắng “ngọt ngào” buổi sớm mai, cái “nhớ thương” của cơn gió lộng buổi chiều, cái ào ào đột ngột của những cơn mưa nhiệt đới; cả sự “trái chứng” của thời tiết đang ui ui buồn bã, bỗng nhiên trong vắt lại như thuỷ tinh; cả cái nhịp sống đa dạng của phố phường; thưa thớt về đêm khuya, náo động, dập dìu vào giờ cao điểm; cả cái không khí mát dịu, thanh sạch ở những con đường rợp bóng cây xanh… Tất cả đã tạo nên vẻ đẹp và những nét riêng biệt cho thành phố phương Nam này.
Có thể nói, đây là đoạn văn kết hợp cảm xúc với quan sát tinh tế, đậm chất trữ tình.
Sau những dòng cảm xúc trữ tình, nhà văn chuyển sang những cảm nhận và bình luận về người Sài Gòn . Phải chăng, ông muốn lí giải kĩ hơn căn nguyên sâu xa tình yêu Sài Gòn của mình: không chỉ yêu nhịp sống, thời tiết, phong cảnh mà còn yêu hơn người Sài Gòn.
Người từ bốn phương hội về đây, rồi nhanh chóng hoà hợp thành người Sài Gòn. Thành phố bao dung và nhân hậu này bao giờ cũng dang hai cánh tay rộng mở mà đón nhiều người từ trăm nẻo đất nước kéo đến. Một thành phố như vậy, lẽ nào lại không yêu? Và có lẽ tình yêu Sài Gòn không chỉ là của riêng nhà văn.
Yêu Sài Gòn, tác giả yêu tất cả những con người Sài Gòn và nhận ra ở họ bao nét đẹp tâm hồn, làm nên một phong cách bản địa mang nhiều nét đặc trưng:
Họ ăn nói tự nhiên, nhiều lúc hề hà, dễ dãi. Phần đông ít dàn dựng, tính toán, người Sài Gòn cũng như phần lớn người Lục tỉnh đều rất chân thành, bộc trực.
Theo tác giả, phong cách ấy đã được kết tinh, trải nghiệm trong một thời gian dài của cuộc sống, được thử thách trong cam go của lịch sử.
Giới thiệu về phong cách người Sài Gòn, tác giả đi sâu vào giới thiệu phong cách của cô gái Sài Gòn – những bông hoa của thành phố làm cho thành phố thêm rực rỡ hơn hương thơm và sắc màu.
Cách viết xen lẫn những dòng cảm nhận và những lời bình luận của Minh Hương làm cho đoạn văn vừa đậm đà cảm xúc trữ tình, vừa giàu chất suy ngẫm.
Bài tuỳ bút kết thúc bằng việc khẳng định lại tình yêu son sắt thuỷ chung và mong ước tha thiết của nhà văn:
Vậy đó, tôi yêu Sài Gòn và yêu cả con người ở đây. Một mối tình dai dẳng, bền chặt. Thương mến bao nhiêu cũng không uổng công, hoài của. Tôi mong ước mọi người, nhất là các bạn trẻ, đều yêu Sài Gòn như tôi.
Cách kết thúc như vậy khiến cho chủ đề được xoáy sâu, nổi bật lên mà để lại những dư âm trong người đọc.
Phát biểu cảm nghĩ về bài "Sài Gòn tôi yêu" – Bài số 2
Sài Gòn tôi yêu là một trong những tùy bút của tác giả Minh Hương viết cuối tháng 12 – 1990 và in trong tập Nhớ… Sài Gòn. Đó là những dòng văn đầy thương nhớ , yêu mến chân thành, nồng nhiệt đối với mảnh đất này.
Mở đầu bài tùy bút tác giả bộc lộ tình yêu nồng cháy của mình với thành phố mang tên Bác. Để thể hiện tình yêu của mình tác giả sử dụng điệp từ “tôi yêu” ở đầu mỗi câu văn được nhắc đi nhắc lại như một khúc ca tình yêu, như để người đọc thể hiện tình yêu sôi sục, rộn rã của nhà văn.
Minh Hương yêu tất cả mọi thứ của Sài Gòn , cả những điều xấu xí của nó . Dường như đối với Minh Hương tình yêu Sài Gòn đã ăn sâu vào máu thịt trở thành một phần cuộc sống của ông.
Tôi yêu cả đêm khuya thưa thớt tiếng ồn. Tôi yêu phố phường náo động, dập dìu xe cộ vào những giờ cao điểm. Yêu cả cái tĩnh lặng của buổi sáng tinh sương với làn không khí mát dịu, thanh sạch trên một số đường còn nhiều cây xanh che chở…
Cũng nhờ tình yêu này đã giúp ông cảm nhận được nhận thật chính xác và tinh nhạy về thành phố Sài Gòn. Đó là những giọt nắng “ngọt ngào” vào những buổi sáng dịu ngọt. Hay cái “nhớ thương” những cơn gió lộng buổi chiều, hãy những cơn mưa rào bất chợt của của miền cận xích đạo. Ông yêu cái nhịp sống ồn ào đa dạng của vùng đất này, yêu những con phố rợp bóng cây xanh… những điều bình dị, đơn sơ đó đã tạo nên vẻ đẹp của thành phố phương Nam đầy nắng này.
Ở Sài Gòn, thì không chỉ có cảnh mà còn cả những con người nồng nhiệt ở vùng đất này. Dường như ông muốn bộc lộ nhiều hơn tình yêu của mình về vùng đất này.Nhưng Sài Gòn, còn đẹp ở con người. Những con người phương Nam hồn hậu, nồng ấm, như ánh nắng mặt trời nơi đây. Ở thành phố này, hàng triệu con người từ khắp mọi miền đổ về nơi đây, cùng nhau chung sống hòa hợp tạo nên một thành phố phồn vinh và nồng ấm.
Và nhớ về Sài Gòn thì không thể quên những cô gái Sài Gòn. Nếu như những cô gái Hà Nội e ấp, đoan trang có chút gì phòng kiến. Thì các cô gái Sài Gòn đẹp ở mái tóc dài đen ánh chiếc món vải xinh xinh. Dáng đi khỏe khoắn tự tin nhưng vẫn duyên dáng đầy quyến rũ. Trong giao tiếp, con gái Sài Gòn kín đáo nhưng thanh lịch miệng cười chúm chím đôi mắt tinh nghịch duyên dáng. Một nét đẹp bình dị những khiến bao người phải nhớ thương.
Nhớ Sài Gòn là nhớ về những tình yêu tổ quốc của những người con anh dũng đã hi sinh vì tổ quốc. Những người con ấy, đã hi sinh cả tuổi thanh xuân, cả tính mạng để bảo vệ mảnh đất xa xôi của tổ quốc.
Và nhà văn cũng có chút thoáng ngậm ngùi khi nhìn thấy những con người độc ác đã tàn phá thiên nhiên. Hàng loạt các giống chim như: Quạ, sáo, vành khuyên… đều đã bị những nòng súng vô tình sát hại. Những cây xanh đã bị thay thế bằng những nhà cao tầng.
Và để nhấn mạnh thêm tình yêu của mình cuối bài tác giả đã viết. Vậy đó mà tôi yêu Sài Gòn và yêu cả con người ở đây. Một mối tình dai dẳng, bền chặt. Thương mến bao nhiêu cũng không uổng công, hoài của. Tôi ước mong mọi người nhất là các bạn trẻ, đều yêu Sài Gòn như tôi.
Sài Gòn đã có nhiều đổi thay sau trở thành một thành phố hiện đại, trung tâm kinh tế của cả nước. Nhưng qua bài tùy bút của tác giả chúng ta đã cảm nhận được một Sài Gòn thật khác. Một tình yêu thật nồng nàn giản dị, mà một người con nhớ về quê hương của mình.
Phát biểu cảm nghĩ về bài "Sài Gòn tôi yêu" – Bài số 3
Sài Gòn tôi yêu là tuỳ bút đậm chất thơ được tác giả Minh Hương viết vào cuối tháng 12 – 1990 và in trong tập Nhớ… Sài Gòn (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh – 1994). Nội dung bài văn thể hiện tình cảm yêu mến chân thành, nồng nhiệt và sự gắn bó sâu đậm của tác giả đối với vùng đất trù phú này cùng với những chủ nhân của nó.
Mặc dù là tùy bút nhưng câu trúc bài văn có thề chia làm ba đoạn.
Đoạn 1: Nêu những ấn tượng chung và tình yêu của tác giả đôi với Sài Gòn. Đoạn 2 là những nhận xét về đặc điểm thiên nhiên và phong cách riêng của người Sài Gòn. Đoạn 3 khẳng định tình yêu tha thiết của tác giả đối với thành phố mang tên Bác.
Những người đã từng sống ở Sài Gòn dù ít hay nhiều đều có chung tâm trạng đi thì nhớ ở thì thương và những ai chưa từng đến thì luôn khao khát được ngắm nhìn tận mắt thành phố được mệnh danh là “Hòn ngọc Viễn Đông”, trung tâm công nghiệp, kinh tế lớn nhất của Việt Nam trong thời ki đổi mới.
Với độ tuổi ba trăm năm, Sài Gòn là một thành phố trẻ. Nơi đây hội đủ ba yếu tố: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Người Sài Gòn rất yêu mảnh đất của mình, nhưng tình yêu của tác giả mới nồng nàn say đắm làm sao.
Sài Gòn vẫn trẻ. Tôi thì đương già. Ba trăm năm so với năm ngàn năm tuổi của Đất nước thì cái đô thị này còn xuân chán. Sài Gòn cứ trẻ hoài như một cây to đương độ nõn nà trên đà thay da, đổi thịt, miễn là cư dân ngày nay và cả ngày mai biết cách tưới tiêu chăm bón trân trọng giữ cái đô thị ngọc ngà này.
Cách so sánh trong hai câu mở đầu hơi lạ : Sài Gòn vẫn trẻ. Tôi thì đương già. So sánh độ tuổi của một vùng đất với độ tuổi của một con người mới nghe qua tưởng chừng khập khiễng nhưng nó lại gợi cho người đọc sự liên tưởng cụ thể và sinh động. Vùng đất Sài Gòn là kết quả công cuộc khai phá, mở mang bờ cõi của ông cha. Tuổi của Sài Gòn là ba trăm năm so với bốn ngàn năm tuổi của đất nước thì quả là thành phố này rất trẻ. Sức sống tràn đầy của một đô thị trẻ, đẹp được nhà vàn so sánh với hình ảnh của một cây tơ đương độ nõn nà phơi phới sức xuân.
Với đôi mắt trìu mến, nhà văn nhìn đâu cũng thấy yêu thương: Tôi yêu trong nắng sớm một thứ nắng ngọt ngào, vào buổi chiều lộng gió nhớ thương, dưới những cây mưa nhiệt đới bất ngờ. Tôi yêu thời tiết trái chửng với trời đang ui ui buồn bã bỗng nhiên trong vắt lại như thủy tinh… Điệp từ Tôi yêu đặt ở đầu mỗi câu thể hiện tình cảm chân thành, da diết của nhà văn trước sự đa dạng của thiên nhiên, khí hậu Sài Gòn. Sài Gòn có hai mùa nắng mưa rõ rệt. Bầu trời mùa nào cũng xanh ngăn ngắt, đầy nắng, đầy gió. Tác giả yêu thích những nét rất riêng của mưa nắng Sài Gòn. Sài Gòn không có mưa phùn, mưa ngâu hay mưa dầm kéo dài hết ngày này sang ngày khác như ở miền Bắc. Mưa Sài Gòn thường vào buổi chiều. Có khi đang đi trên đường Đồng Khởi quận Một, cơn mưa ập tới bất ngờ không tránh kịp nhưng về đến đường Bàn Cờ quận Ba thì trời lại trong veo. Vào mùa này, hễ ra khỏi nhà là người Sài Gòn nhắc nhau phải mang áo mưa phòng thân. Sự thay đổi nhanh chóng, đột ngột của thời tiết được tác giả miêu tả bằng hình ảnh thật chính xác và gợi cảm: trời đang ui ui buồn bỗng nhiên trong vắt lại như thủy tinh.
Vẫn bằng tình cảm yêu thương, tác giả miêu tả không khí và nhịp sống sôi nổi của Sài Gòn trong những thời khắc khác nhau : Tôi yêu cả đêm khuya thưa thớt tiếng ồn. Tôi yêu phố phường náo động, dập dìu xe cộ vào những giờ cao điểm. Yêu cả cái tĩnh lặng của buổi sáng tinh sương với làn không khí mát dịu, thanh sạch trên một số đường còn nhiều cây xanh che chở…
Trong phần đầu bài tùy bút, tác giả đã bộc lộ tình yêu nồng nhiệt, thiết tha của mình đồi với Sài Gòn. Vẻ đẹp của Sài Gòn được nhân lên gấp bội trước con mắt chan chứa yêu thương. Tác giả không chỉ yêu màu nắng ngọt ngào mà còn yêu cả những điều tưởng chừng không mấy dể chịu như sự trái chứng của thời tiết thoắt nắng, thoắt mưa. Cả sự náo động, dập dìu xe cộ vào những giờ cao điểm cũng trở thành những cái đáng yêu, đáng nhớ. Tự biết lòng mình yêu Sài Gòn đến mức thiên vị nên tác giả đã biện minh bằng câu ca dao nói về quy luật tâm lí thông thường của con người: Yêu nhau yêu cả đường đi…
Một chi tiết nhỏ đáng lưu ý là bài kí này được viết từ năm 1990 mà thời điểm hiện tại chúng ta đang sống đã là năm 2014, tất nhiên bộ mặt Sài Gòn đã có nhiều thay đổi.
Đô thị được mở rộng ra nhiều hướng với những con đường trải nhựa phẳng lì thẳng tắp, hai bên san sát nhà cao tầng, cửa kính cửa chớp sáng choang. Những chiếc cầu bê tông sừng sững nối đôi bờ sông, giúp cho tàu xe thuận tiện ngược xuôi trăm nẻo. Sài Gòn đã mang dáng dấp của một thành phố công nghiệp hiện đại thời mở cửa, có mối quan hệ giao lưu rộng rãi với khu vực châu Á và toàn thế giới.
Sài Gòn không chỉ đẹp ở cảnh sắc mà còn đẹp ở con người. Con người đã làm cho cảnh sắc Sài Gòn rực rỡ hơn, lung linh hơn. Ở phần đầu bài viết, tác giả miêu tả thiên nhiên Sài Gòn, đến phần sau, tác giả giới thiệu tính cách của người Sài Gòn.
Tác giả nhận xét rất đúng về đặc điểm của cư dân Sài Gòn: Ở trên đất địa này, không có người Bắc, không có người Trung, người Nam, người Hoa, người Khơ-me… mà chỉ toàn là người Sài Gòn cả. Mọi người sống hòa hợp với nhau, không phân biệt nguồn gốc, giàu nghèo. Người trên khắp mọi miền đất nước đổ về Sài Gòn lập nghiệp, sống lâu, sống quen một thời gian dài ở Sài Gòn, rồi cứ ngỡ là mình đã sinh ra ở đây và vô hình trung đã thừa nhận nơi đây là quê quán của mình. Sài Gòn là mảnh đất giàu tiềm năng, có rất nhiều việc kiếm ra tiền nên: Nếu siêng năng, chịu khó thì bạn sẽ được đãi ngộ thân tình như hàng triệu người khác. Sài Gòn là vùng đất trù phú, mỡ màu; là thành phố có nhiều khu công nghiệp, khu kinh tế lớn, nhiều trung tâm thương mại sầm uất cung cấp hàng hóa cho cả nước và xuất khẩu ra nước ngoài qua bến cảng Nhà Rồng rộng lớn và sân bay Tân Sơn Nhất hiện đại.
Thành phố Sài Gòn rộng mở và hào phóng là nơi rất thuận lợi cho người tứ xứ đến đây sinh sống. Ngày nay đã leo lên hơn năm triệu. (Đây là con số của những năm 90, còn đến nay, số dân của thành phố đã lên tới gần tám triệu người).
Phong cách nổi bật của người Sài Gòn cũng được tác giả nhận xét chân thực và đầy thiện cảm: Cách ngày nay gần năm mươi năm, vào đây được gần gũi với người Sài Gòn, tôi đã thấy phong cách bản địa mang nhiều nét đặc trưng. Họ ăn nói tự nhiên, nhiều lúc hề hà, dễ dãi. Phần đông ít dàn dựng, tính toán. Người Sài Gòn cũng như phần lớn người Lục tỉnh rất chân thành, bộc trực…
Con gái Sài Gòn có vẻ đẹp rất tự nhiên, dễ thương. Đây là hình ảnh các cô gái Sài Gòn hồi thế kỉ XX: … tóc buông thõng trên vai, trên lưng, có khi tết bím… Đội nón vải trắng, vành rộng, như nón Hướng đạo. Áo bà ba trắng, đính một túi nhỏ xíu duy nhất bên thân mặt áo. Quần đen rộng. Mang giày bố trắng (giày vải, giày ba-ta) hay xăng đan da. Có người đi guốc vông trơn trắng nõn, quai da, dạng chiếc xuồng hay hình hộp cá mòi. Dáng đi khỏe khoắn, mạnh dạn. Cái đẹp thật đơn sơ, đôn hậu. Cũng yểu điệu, thướt tha, nhưng theo cung cách Bến Nghé. Cũng e thẹn, ngượng nghịu như vừng trăng mới ló, còn ngập ngừng giấu nửa vành sau áng mây. Nụ cười thiệt tình, tươi tắn và ít nhiều thơ ngây. Trong khi giao tiếp, các cô thể hiện nét đẹp kín đáo của người Á Đông: Bây giờ, khi chào người lớn, các cô ấy (trước 1945) cúi đầu, chắp hai bàn tay lại và xá. Gặp trang lứa bạn bè thì hơi cúi đầu và cười. Cười ngậm miệng, cười chúm chím, cười mủm mỉm, cười he hé, chỉ để lộ vài cái răng hay lộ cả hàm tùy theo mức độ thân quen. Đặc biệt là cặp mắt sáng rỡ, nhí nhảnh, đôi lúc lại ánh lên vài tia hóm hỉnh.
Tuy phong cách tiếp cận người quen hay khách lạ có vẻ hơi “cổ xưa” nhưng lại rõ ràng dân chủ. Không có tư thế khúm núm hay màu mè. Không một chút mặc cảm, tự ti.
Vẻ đẹp của các cô gái được nói tới trên đây vừa mang vẻ đẹp truyền thống vừa mang bản sắc riêng của người Sài Gòn. Ngày nay, những cô gái Sài Gòn đẹp như một vườn hoa muôn màu sắc và ngát hương thơm.
Nét đẹp của người Sài Gòn còn thể hiện ở tinh thần kiên cường, anh dũng, sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc: Tuy nhiên, đến những hồi nghiêm trọng và sôi sục nhất của đất nước thì các cô gái ấy cũng như các chàng trai và các giói đồng bào của Sài Gòn bất khuất, không chút do dự, dấn thân vào khó khăn, nguy hiểm và có khi hi sinh cả tánh mạng, xuyên suốt ba chục năm từ 1945 đến 1975…
Một thoáng ngậm ngùi, bất bình khi nhà văn nghĩ đến những kẻ vô tình hay cố ý tàn phá thiên nhiên: Sài Gòn ngày nay cũng rất ít chim. Đến mùa, một ít nhạn, én bay về trú đông, dưới các mái nhà cao tầng, mái đình, mái chùa. Thỉnh thoảng mới thấy vài chị quạ, chị sáo, vài chị vành khuyên sắc ô, áo già… Nhiều nhứt là họ hàng se sẻ mà bây giờ cũng thấy thưa thớt dần. Trước kia, rất nhiều, cả cò, cả vạc xổng lồng trong Sở thú bay ra làm tổ trên mấy ngọn cây dầu, cây sao cao ngất với các chị cu gáy, chị quạ, chị sáo… Những nòng súng hơi ác độc của những người vô trách nhiệm với môi trường sống và chẳng thèm đếm xỉa đến pháp luật đương bảo vệ thiên nhiên, đang tay bắn giết chim và dơi của thành phố. Đây là đoạn văn hồi ức thể hiện tình cảm nhớ nhung và luyến tiếc của tác giả về một thiên nhiên an lành, phong phú của Sài Gòn trong quá khứ chưa xa.
Kết thúc bài tùy bút, tác giả khẳng định tình yêu sâu đậm của mình đôi với Sài Gòn và khơi dậy trong lòng mọi người tình yêu ấy: Vậy đó mà tôi yêu Sài Gòn và yêu cả con người ở đây. Một mối tình dai dẳng, bền chặt. Thương mến bao nhiêu cũng không uổng công, hoài của. Tôi ước mong mọi người nhất là các bạn trẻ, đều yêu Sài Gòn như tôi.
Sau 17 năm bài tùy bút này ra đời, Sài Gòn có nhiều thay đổi lớn lao. Thành phố Sài Gòn rộng lớn hơn, cao vút lên, đẹp như một bức tranh lộng lẫy. Dù sao, qua bài tùy bút này, tác giả Minh Hương đã để lại trong lòng người đọc ấn tượng khó phai về Sài Gòn – mảnh đất thân thương của đất nước Việt Nam yêu dấu, xứng đáng mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Phát biểu cảm nghĩ về bài "Sài Gòn tôi yêu" – Bài số 4
Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay, trước kia có tên gọi là Sài Gòn. Ba trăm năm từ khi được thành lập cho đến ngày nay, thành phố Sài Gòn đã trải qua bao thăng trầm, biến đổi và ngày càng lớn lên, trở thành đô thị lớn nhất, có dân số đông nhất trong các tỉnh, thành phố của nước ta, là trung tâm kinh tế lớn nhất của Việt Nam. Để hiểu một phần nét đẹp, nét đặc trưng của Sài Gòn, chúng ta hãy đọc bài tùy bút Sài Gòn tôi yêu của cây bút đương đại Minh Hương.
Là tùy bút, nên áng văn này mang đặc điểm nghệ thuật tương tự tác phẩm Một thứ quà của lúa non : Cốm của Thạch Lam. Nếu Thach Lam vừa miêu tả, tự sự vừa biểu cảm, miêu tả, tự sự xen kẽ bình luận, cảm xúc xen kẽ suy ngẫm, thì Minh Hương thiên về miêu tả, kể chuyển và biểu cảm, xen đôi ba nhận xét nhẹ nhàng mà ít bình luận. Ngòi bút của tác giả khá phóng túng, nhung bố cục văn mạch lạc. Ngôn ngữ, hình ảnh, ý tưởng và cảm xúc được tổ chức hài hoà trong những phát hiện tinh tế về Sài Gòn và một mối tình dai dẳng, bền chặt đối với Sài Gòn.
Bốn câu mở đầu, từ "Sài Gòn vẫn trẻ" đến cái đô thị ngọc ngà này" là đọan thứ nhất: Cảm nhận chung về sức sống và vẻ đẹp, qúy của Sài Gòn.
Đọan thứ hai, từ "Tôi yêu Sài Gòn …" đến "… hơn năm triệu". Nhà văn biểu hiện tình yêu Sài Gòn qua những phát hiện nét đặc trưng của thành phố về khí hậu, con người, cuộc sống…
Bốn câu cuối: từ "Vậy đó mà tôi yêu Sài Gòn …" đến hết: Nhân mạnh tình cảm đằm thắm, dai dẳng, da diết của mình đối với Sài Gòn.
Đọc bài tùy bút, chúng ta thấy cái tôi tác giả biểu hiện trực tiếp trong từng đọan, từng hình ảnh, sự việc bằng hai cung bậc: sự phát hiện tinh tế và tình cảm nồng nàn, đằm thắm.
Ngay mấy câu mở đầu, nhà văn đã ngợi ca vẻ đẹp đặc trưng của Sài Gòn bằng cách đối chiếu, so sánh, ẩn dụ khéo léo. Đối chiếu ba trăm năm tuổi của Sài Gòn với năm ngàn năm tuổi của đất nước, nhà văn khẳng định : "Cái đô thị này còn xuân chán". Tiếp đó là một so sánh : "Sài Gòn cứ trẻ hoài như một cây tơ đương độ nõn nà…" và một ẩn dụ : "cái đô thị ngọc ngà này…". Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh vừa mang vóc dáng của con người đang độ xuân xanh, vừa khoẻ khoắn, vươn cao, tràn trê nhựa sống của một loài cây non tơ nõn nà, lại vừa thu gọn trong hình hài của ngọc ngà quý hiếm. Những cụm từ "còn xuân chán", "cứ trẻ hoài…", "đương độ nõn nà trên đà thay da đổi thịt…" biểu hiện rõ sức sống đang lên của Sài Gòn, tình yêu và niềm tự hào của nhà văn đối với mảnh đất mình đang sống.
Xuống đoạn hai, sự phát hiện và tình cảm của tác giả phong phú, tinh tế hơn và nồng nàn hơn. Mở đầu đoạn văn lại là một so sánh khá táo bạo : "Tôi yêu Sài Gòn da diết như người đàn ông vẫn ôm ấp bóng dáng mối tình đầu chứa nhiều ngang trái". Nhà văn yêu Sài Gòn ờ những phương diện nào, từ đó phát hiện những đặc trưng nào của Sài Gòn ? Trước hết, tác giả cảm nhận về khí hậu Sài Gòn với các đặc điểm ít nơi trên đất nước ta có được. Nào là "nắng sớm… ngọt ngào, buổi chiểu lộng gió". Nào là "thời tiết trái chứng, trời đang ui ui buồn bã bồng nhiên trong vắt lại như thuỷ tinh…". Trong thời tiết ấy, phố phường Sài Gòn lúc thì "náo động dập dìu xe cộ", lúc "tĩnh lặng buổi sáng tinh sương với làn không khí mát dịu, thanh sạch…". Điều thú vị là điệp từ yêu được nhắc lại tới năm lần liên tiếp, rồi được nhấn mạnh thêm hai lần trong câu ca dao như muốn sơ kết một cung bậc cảm xúc :
Yêu nhau yêu cả đường đi…
Tiếp theo nét đặc trưng của khí hậu Sài Gòn là vẻ đẹp và phong cách sống của người dân Sài Gòn. Tác giả giới thiệu thành phần dân cư Sài Gòn thật khéo : "Ở trên đất này, không có người Bắc, không có người Trung, người Nam, người Hoa, người Khơ-me… mà chỉ toàn là người Sài Gòn cả". Câu văn vừa điểm qua nguồn gốc người Sài Gòn vừa khẳng định tính đoàn kết gắn bó, tính thống nhất của dân cư nơi đây. Từ đó, nhà văn hồi tưởng những năm đầu, mình từ quê hương miền Trung vào Sài Gòn, được gặp gỡ, được đón nhận bởi những con người "ăn nói tự nhiên, nhiều lúc hề hà dễ dãi", "rất chơn thành, bộc trực".
Nhà văn coi đó là nét bản địa trong phong cách sống và ứng xử. Nét riêng của người dân Sài Gòn có lẽ tập trung và được bộc lộ rõ nhất ở nữ giới, nhất là các cô gái thị thiêng. Bằng một vài câu văn miêu tả, nhà văn vẽ trước mặt chúng ta chân dung cô gái Sài Gòn khá cụ thể: Tóc buông thõng trên vai, trên lưng, hoặc tết bím. Nón (mũ) vải tráng vành rộng. Áo bà ba trắng. Quần đen rộng. Giày bố trắng, hay xãng-đan da. Hoặc guốc vuông trơn trắng nõn. Dáng đi khoẻ khoắn, mạnh dạn. Nụ cười thiệt tình, tươi tắn và ít nhiều thơ ngây… Cũng có lúc, các cô gái Sài Gòn yểu điệu thướt tha, hoặc e thẹn ngượng ngùng. Tất cả nét cụ thể ấy hài hoà tạo thành cái duyên chung của người Sài Gòn, những con người mang "cái đẹp thật đơn sơ, đôn hậu", như nhà văn nhận xét. Song đó không phải loại người thô thiển, tầm thường, trái lại người Sài Gòn, các cô gái Sài Gòn hài hoà vẻ đẹp chân thành, bộc trực và tính e thẹn, ngượng ngùng, cứ y như vừng trăng mới ló, còn ngập ngừng giấu nửa vành sau áng mây. Cách ứng xử của các cô gái Sài Gòn cũng thật đẹp. Gặp người lớn, các cô cúi đầu chào. Gặp bạn bè cùng trang lứa, thì hơi cúi đầu và cười. Nụ cười của các cô ý nhị, vừa phải ngậm miệng, chúm chím, mủm mỉm… Đặc biệt là cặp mắt sáng rỡ, nhí nhảnh, hóm hỉnh. Ngỡ như đấy là những con người yếu mềm, hay e thẹn. Nhưng, khi bước vào những thời kì sôi sục chiến đấu chống ngoại xâm từ sau Cách mạng đến năm 1975, các cô gái Sài Gòn, người dân Sài Gòn đã đứng lên, hiên ngang, bất khuất không chút do dự, dấn thân vào khó khăn… Chẳng cần suy nghĩ nhiều, qua đoạn văn vừa miêu tả vừa nhận xét, bình luận nhẹ nhàng của tác giả Minh Hương, chúng ta được tiếp xúc với những người dân Sài Gòn mang những nét riêng rất đáng yêu, đáng trọng. Ở đoạn này, nhà vãn không dùng một từ yêu nào, khác hẳn ở đoạn trên. Nhưng bằng những hình ảnh đẹp, những động từ, tính từ đặc tả, gợi hình, nhà văn vẫn bộc lộ biết bao tình yêu, lòng quý trọng và cả sự biết ơn đối với mảnh đất và con người Sài Gòn giản dị, chân thành, nhân hậu,… Cuối đoạn hai này, tác giả khẳng định : Sài Gòn là một đô thị hiền hoà của mảnh đất lành miền Nam. Tục ngữ ta có câu "Đất lành chim đậu". Với những lớp người từ các vùng quê, mảnh đất khác vào sống ở Sài Gòn thì… Sài Gòn đúng là mảnh đất lành, sẵn sàng đón nhận người dân tứ xứ tụ hội lại để tạo nên miền quê mới rất đồi thân thương. Dường như, khi nghĩ tới mảnh đất lành Sài Gòn, nhà văn đã liên tưởng tới câu tục ngữ trên để từ đó bàn về các loại chim từ nhiều phương trời về sống trên lùm cây, mái nhà của Sài Gòn.
Đoạn văn lướt qua, điểm tên vài loài chim như những cánh bay vụt thoáng trên bầu trời mà vẫn đem đến cho người đọc ấn tượng thú vị về các giống chim ờ Sài Gòn : nhạn, én, quạ, sáo, vành khuyên, sắc ô, áo già,… Nhưng rồi chỉ lướt qua thôi, sau khi than thở, chê trách một số tay súng sát hại chim chóc, huỷ hoại môi trường, tác giả lại trỡ về nói tới con người, ca ngợi con người : "Thành phố hiếm hoi dần chim chóc. Thì đã có con người… Ngày nay đã leo lên hơn năm triệu". Đúng là mảnh đất hào phóng và thuận lợi, nơi đất lành phía Nam của Tổ quốc ta.
Bốn câu kết của bài tuỳ bút trở về với âm điệu nhẹ nhàng, truyền cảm. Những từ biểu cảm được dùng ờ một tần số dồn dập thể hiện cảm xức mạnh hơn, đằm thắm hơn. Tôi yêu Sài Gòn … và yêu cả con người… Thương mến bao nhiêu… Tôi ước mọi người … đều yêu Sài Gòn … Đúng là một mối tình dai dẳng, bền chặt không bút nào tả xiết được.
Đọc bài tuỳ bút của tác giả Minh Hương, chúng ta hiểu và thêm yêu Thành phố Hồ Chí Minh với cái tên cổ kính gợi nhiều nhớ thương. Sài Gòn là thành phô trẻ trung, năng động, có nét hấp dẫn riêng của thiên nhiên, khí hậu nhiệt dới và nhất là cha con người Sài Gòn với phong cách cởi mở bộc trực, chân tình và tự tin. Cám ơn nhà văn Minh Hương đã thể hiện tình cảm sân đậm với Sài Gòn qua sự gắn bó lâu bền, am hiểu tường tận và cảm nhận tinh tế về thành phố của mình.
Vũ Hường tổng hợp
Từ khóa tìm kiếm
- bài văn miêu tả biểu cảm về mùa xuân ở thành phố hồ chí minh
- Lam bai van cam nghi ve bai Sai Gon toi yeu