Phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân trong bài thơ “Đất nước”
Phan tich tu tuong cua nhan dan trong bai tho Dat nuoc – Đề bài: Phân tích Tư tưởng đất nước của nhân dân trong bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Đề tài đất nước trong thơ thời kì kháng chiến chống Mĩ là một đề tài rộng lớn, ở mỗi nhà thơ có cách cảm nhận riêng mang dấu ấn ...
Phan tich tu tuong cua nhan dan trong bai tho Dat nuoc – Đề bài: Phân tích Tư tưởng đất nước của nhân dân trong bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Đề tài đất nước trong thơ thời kì kháng chiến chống Mĩ là một đề tài rộng lớn, ở mỗi nhà thơ có cách cảm nhận riêng mang dấu ấn trải nghiệm riệng của bản thân, đặc biệt là các cây bút trực tiếp cầm súng chiến đấu ở chiến trường như: Nguyễn Duy, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo,… Tiêu biểu trong ...
– Đề bài: Phân tích Tư tưởng đất nước của nhân dân trong bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm.
Đề tài đất nước trong thơ thời kì kháng chiến chống Mĩ là một đề tài rộng lớn, ở mỗi nhà thơ có cách cảm nhận riêng mang dấu ấn trải nghiệm riệng của bản thân, đặc biệt là các cây bút trực tiếp cầm súng chiến đấu ở chiến trường như: Nguyễn Duy, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo,… Tiêu biểu trong đó là tư tưởng đất nước của nhân dân được thể hiện một cách sâu sắc trong bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm.
Bài thơ mở đầu bằng chín câu thơ lý giải cội nguồn đất nước để trả lời cho câu hỏi đất nước có từ bao giờ:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa…" mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết tròng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Đất nước ra đời trước khi con người có mặt trên trái đất này vì thế không ai biết được cụ thể nó có từ bao giờ, chỉ biết rằng “khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”. Nguyễn Khoa Điềm đã mượn mô típ quen thuộc của truyện cổ tích “ngày xửa ngày xưa” để nói lên lịch sử hình thành của đất nước đã từ lâu lắm rồi. Đồng thời nhà thơ còn gắn sự ra đời của đất nước với văn hóa hình thành từ lâu đời, đó là những phong tục tập quán rất quen thuộc trong nếp sinh hoạt truyền thống của dân tộc ta. Phong tục ăn trầu xuất hiện trong cuộc sống hằng ngày với hình ảnh “miếng trầu là đầu câu chuyện”, trong các sự kiện quan trọng của đời người như đám hỏi, đám cưới, đám tang. Bên cạnh đó còn có tục búi tóc sau đầu, hình ảnh cái kèo, cái cột thành tên. Đất nước còn lớn lên cùng với hành trình lịch sử dựng nước, giữ nước và lao động sản xuất để xây dựng đất nước. Hình ảnh nhân dân ta trồng tre để đánh giặc đã rất quen thuộc trong sự tích Thánh Gióng. Công cuộc lao động sản xuất vất vả để làm ra hạt gạo, phải trải qua một nắng hai sương, qua các công đoạn sản xuất: xay, giã, giần, sàng cũng được nhắc đến trong đoạn thơ. Đất nước ra đời cũng gắn với đời sống sinh hoạt tình nghĩa với hình ảnh gia đình, vợ chồng thủy chung. Đây là chính là yếu tố gợi lên sự gần gũi , gắn bó nhất, thiêng liêng nhất trong các yếu tố hình thành nên một đất nước, một dân tộc. Câu thơ kết “Đất Nước có từ ngày đó” như một hình thức quy nạp. Như vậy, cội nguồn đất nước gắn với những hình ảnh bình dị, quen thuộc, bình thường nhất.
Đất nước trong quan niệm của Nguyễn Khoa Điềm được hình thành từ không gian địa lý:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc"
Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi"
Thời gian đằng đẵng
Không gian mệnh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Đất nước được hình thành nên từ phương diện địa lý qua các hình ảnh giản dị. Đó là hình ảnh sinh hoạt đời thường “anh đến trường”, “em tắm”. Đó là hình ảnh đi vào ca doa truyền thống “con chím phượng hoàng bay về hòn núi bạc”, “con cá ngư ông móng nước biển khơi”. Bài thơ còn mở ra không gian sinh tồn của người dân Việt Nam, đó là phạm vi mà nhân dân ta đã sống qua các triều đại. Không gian tình yêu cũng được tái hiện khi tác giả gắn hình ảnh đất nước với tình yêu đôi lứa qua hình ảnh “anh” và “em”. Đặc biệt, tác giả đã đưa không gian lịch sử vào trong bài thơ. Không gian ấy bắt đầu từ những truyền thuyết nhuốm màu sắc lịch sử, lí giải sự ra đời của các dân tộc anh em “con rồng cháu tiên” cùng các triều đại vua Hùng đã có công dựng nước và giữ nước “nhớ ngày giỗ Tổ”. Đất nươc còn được hình thành từ không gian văn hóa. Không gian ấy gắn với các sự tích: Chim về, Rồng ở, Lạc Long Quân, Âu Cơ cùng truyền thống uống nước nhớ nguồn. Trong tất cả các không gian ấy không thể thiếu bóng dáng và vai trò của con người:
“Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ “
Con người Việt Nam đã lao động xây dựng đất nước, chiến đấu chống thù trong giặc ngoài đầy gian khổ. Bên cạnh đó, nhưng người dân còn phải gánh vác nhiệm vụ duy trì nòi giống, giáo dục con cháu về trách nhiệm của bản thân, tiếp nối truyền thống của cha ông. Như vậy mỗi một thế hệ con người Việt Nam đều mang trong mình nhiệm vụ giữ gìn phát huy những gì thế hệ đi trước để lại và đồng thời có cả trách nhiệm với thế hệ tương lai.
Đất nước Việt Nam không những được hình thành từ không gian địa lý, lịch sử mà còn được xây dựng từ sự hòa hợp của con người, giữa cái riêng và cái chung:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn”
Hình ảnh đất nước có trong mỗi con người chúng ta. Mỗi con người chúng ta hôm nay đều được thừa hưởng những thành quả về vật chất và tinh thần của các thế hệ trước đê lại. Tác giả đã gắn kết hiện tại với quá khứ và nó là cả một hành trình để những thành quả quá khứ được phát huy ở hiện tại với những con người đương thời. Tác giả đã thức tỉnh cho chúng ta một nhận thức sâu sắc: để có được một đất nước như ngày hôm nay là kết quả của cả một quá trình gian lao vất vả của các thế hệ cha anh. Đồng thời tác giả cũng sử dụng những hình ảnh, từ ngữ nói về tình yêu đôi lứa để nói rằng đất nước được tạo ra từ chính tình yêu. Từ tình yêu đôi lứa dần phát triển lên thành những tình yêu cao cả hơn, đó là tình yêu quê hương, đất nước, là sự hài hòa giữa cái riêng và cái chung.
Đất nước còn gắn với trách nhiệm của mỗi con người:
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
Những danh lam thắng cảnh cũng g óp phần tạo dựng nên một đất nước hoàn chỉnh:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”
“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Những em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết "yêu em từ thuở trong nôi"
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
Đất nước được dựng lệ từ những con người vo danh. Đó là những người con trai ra trận đánh giặc. Đó là những người con gái ở nhà làm lụng vất vả. Những con người giản dị, bình thường nhưng không tầm thường ấy đã làm nên lịch sử hơn bốn nghìn năm đất nước. Họ giữ lửa, dạy trồng lúa, truyền giọng nói, mở mang bờ cõi, làm nên văn hóa, truyền thống của dân tộc, không có họ thì sẽ không có đất nước của ngày hôm nay. Vì vậy, Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định “Đất nước này là đất nước của nhân dân”. Đây chính là tư tưởng của toàn bộ bài thơ. Đất nước không phải của bất kì một vị vua hay một triều đại nào cả mà ngay từ khi mới được hình thành, đất nước đã là của nhân dân bởi nó sinh ra từ nhân dân, vì nhân dân mà tồn tại.
Với cái nhìn mới mẻ về đất nước qua các phương diện lịch sử, địa lý, văn hóa, tình yêu,.. Nguyễn Khoa Điềm đã xây dựng lên một hình ảnh đất nước toàn vẹn – đất nước của nhân dân. Tư tưởng ấy đã khẳng định vai trò của những con người vô danh, bình thường mà không tầm thường.