Phân tích truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao văn 12
Phan tich truyen ngan Doi mat cua Nam Cao – Vì sao tác phẩm Đôi mắt của Nam Cao được coi là "tuyên ngôn nghệ thuật" của nhiều nhà văn ở thời kì đẩu cuộc kháng chiến chống Pháp. Phân tích tác phẩm để làm rõ điều đó. Ít có nhà vãn lại trăn trở nghĩ suy về ngòi bút của mình như Nam Cao và ...
Phan tich truyen ngan Doi mat cua Nam Cao – Vì sao tác phẩm Đôi mắt của Nam Cao được coi là "tuyên ngôn nghệ thuật" của nhiều nhà văn ở thời kì đẩu cuộc kháng chiến chống Pháp. Phân tích tác phẩm để làm rõ điều đó. Ít có nhà vãn lại trăn trở nghĩ suy về ngòi bút của mình như Nam Cao và ông đã gửi gắm những suy nghĩ dó vào tác phẩm như là những tuyên ngôn nghệ thuật của người cầm bút. Từ Trăng sáng (1943) với việc dứt khoát đứng về phía ...
– Vì sao tác phẩm Đôi mắt của Nam Cao được coi là "tuyên ngôn nghệ thuật" của nhiều nhà văn ở thời kì đẩu cuộc kháng chiến chống Pháp. Phân tích tác phẩm để làm rõ điều đó.
Ít có nhà vãn lại trăn trở nghĩ suy về ngòi bút của mình như Nam Cao và ông đã gửi gắm những suy nghĩ dó vào tác phẩm như là những tuyên ngôn nghệ thuật của người cầm bút. Từ Trăng sáng (1943) với việc dứt khoát đứng về phía "nghệ thuật vị nhân sinh", đến Đời thừa (1943) nhấn mạnh tính sáng tạo trong ngòi bút để làm tròn sứ mạng cao quý của nghề văn, đến Đôi mắt (1948) ông lại đặt ra vấn đề cách nhìn của nhà văn trong sáng tác nghệ thuật ở thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp mà Tô Hoài đã coi đó là tuyên ngôn nghệ thuật của thế hệ nhà văn lúc bấy giờ.
Vì sao Đôi mắt được coi là "Tuyên ngôn nghệ thuật" của nhiều nhả văn ở thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp?
Viết Đôi mắt, Nam Cao đặt ra một vấn đề bức xúc và cốt tử của nhà văn nghệ sĩ lúc bấy giờ: vấn đề cách nhìn, quan điểm. Ở đây là quan điểm đối với cuộc kháng chiến, đặc biệt là đối với nhân dân, những người đã làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám và đang đóng vai trò chủ chốt trong cuộc kháng chiến. Không chỉ là cách nhìn, quan điểm mà nội dung tác phẩm còn đặt vấn đề sâu hơn, gốc gác hơn: Vấn đề lập trường của nhà văn đối với cuộc kháng chiến của dân tộc.
Vì sao Nam cao lại đặt ra vấn đề cách nhìn vào thời điểm ấy? và đặt ra cho ai? Đó là lớp văn nghệ sĩ trước 1945, tuy yêu nước và có tinh thần dân tộc, đi theo cách mạng, nhưng chưa thật hiểu cách mạng, hiểu nhân dân và kháng chiến. Họ còn nhiều hoài nghi, phân vân, do dự trước cuộc kháng chiến của dân tộc. Như vậy thì làm sao có thể nhìn đúng để viết đúng được, làm sao có thể phục vụ cuộc kháng chiến bằng ngòi bút của mình? Họ đang "tìm đường" và "nhận đường" cho mình. Và Nam Cao đã giúp họ "gỡ nứt" bằng truyện ngắn Đôi mắt: xác lập cho họ một chỗ đứng (vấn đề lập trường) và một cách nhìn (vấn đề quan điểm) để giải tỏa những băn khoăn, vướng mắc trong ngòi bút của họ.
Tuyên ngôn nghệ thuật của Đôi mắt không chỉ là vấn đề bức xúc lúc bấy giờ mà còn là vấn đề cốt tử, vĩnh hằng của văn nghệ sĩ: "thế giới quan quyết định sáng tác nghệ thuật". Có nghĩa là, cách nhìn hiện thực đúng thì sẽ đem lại những tác phẩm tốt, có ích cho đời, và ngược lại. (Dĩ nhiên, nhà văn phải có tài năng nghệ thuật tương xứng). Và, để có cách nhìn đúng đắn, thì điều tiên quyết là nhà văn phải có một chỗ đứng đúng đắn: ở giữa cuộc sống cách mạng của nhân dân, của đất nước.
Vấn đề Đôi mắt được Nam Cao đặt ra như thể nào trong tác phẩm?
Nam Cao đã đặt ra vấn đề cốt tử này – không phải bằng lí luận khô khan trừu tượng, mà bằng một hình tượng nghệ thuật sóng đôi hấp dẫn, sinh động với hai nhân vật có lập trường và cách nhìn đối lập nhau: Hoàng và Độ. Văn sĩ Hoàng là tiêu biểu cho loại người có cách nhìn sai lệch, phiến diện (Nam Cao gọi là "nhìn một phía") với thái độ hằn học, khinh miệt quần chúng và không tin tưởng vào cuộc kháng chiến của nhân dân: ông ta chỉ chăm chăm nhìn vào hiện tượng bên ngoài mà không thấy được bản chất tốt đẹp bên trong của người nông dân yêu nước kháng chiến. Ngược lại là Độ – nhà văn có cách nhìn đúng đắn, toàn diện (thây được cả mặt tích cực, mặt hạn chế tồn tại, và đâu là bản chất của người nông dân) với thái độ thông cảm và tin tưởng. Trước sự việc anh nông dân vác tre đi rào làng kháng chiến, Hoàng chỉ thấy đó là một con người "ngố và nhặng xị", một con vẹt đọc thuộc lòng ba giai đoạn kháng chiến; nhưng Độ lại thấy ở anh một tấm lòng yêu nước thật hồn nhiên và vô tư.