Phân tích truyện cười Tam đại con gà – Văn mẫu lớp 10
Đánh giá bài viết Phân tích truyện cười Tam đại con gà – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Hà Tĩnh Mâu thuẫn trái tự nhiên ở nhân vật “Thầy”. Bản chất nhân vật thầy đồ được khẳng định ngay từ đầu là dốt nát. Dốt nát nhưng lại hay khoe giỏi, đó là mâu thuẫn trái tự nhiên ...
Đánh giá bài viết Phân tích truyện cười Tam đại con gà – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Hà Tĩnh Mâu thuẫn trái tự nhiên ở nhân vật “Thầy”. Bản chất nhân vật thầy đồ được khẳng định ngay từ đầu là dốt nát. Dốt nát nhưng lại hay khoe giỏi, đó là mâu thuẫn trái tự nhiên ở nhân vật. Câu chuyện muốn minh chứng cho mâu thuẫn đó nhưng qua các tình huống, mâu thuẫn này ...
Phân tích truyện cười Tam đại con gà – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Hà Tĩnh
Mâu thuẫn trái tự nhiên ở nhân vật “Thầy”.
Bản chất nhân vật thầy đồ được khẳng định ngay từ đầu là dốt nát. Dốt nát nhưng lại hay khoe giỏi, đó là mâu thuẫn trái tự nhiên ở nhân vật. Câu chuyện muốn minh chứng cho mâu thuẫn đó nhưng qua các tình huống, mâu thuẫn này lại biến đổi đi một chút trở thành: dốt nhưng luôn tìm cách giấu dốt. Đó cũng là nội dung đả kích được bộc lộ qua những tình huống cụ thể.
Khi gặp chừ “kê” – một chữ đơn giản trong sách dạy trẻ con học chữ Hán – thầy không biết. Không biết nhưng phải dạy cho học trò nên thầy đành nói bừa, nói liều. Nói bừa, nói liều nên thầy phải dặn học trò đọc khẽ, để không ai nghe thấy. Như vậy thầy đã tự bộc lộ cái dốt nát thảm hại ở nhiều phương diện (kiến thức và cách xử trí) và cũng bộc lộ cái láu cá vặt khi tìm cách giấu đi cái dốt của mình.
Sau đó để kiểm tra sai đúng, thầy xin âm dương và “đắc chí” vì thổ công cũng đồng tình với mình. Có cơ sở để tin tưởng và yên tâm thầy không còn “sợ nhỡ sai”, “bảo học trò đọc khẽ” mà “bệ vệ ngồi trẽn giường bảo trẻ đọc cho to” và “lũ trẻ vâng lời thầy gân cổ lẽn đọc”. Đây là biểu hiện của mâu thuẫn dốt nhưng lại thích khoe chữ. Và cũng chính vì thói thích khoe như vậy nên bao nhiêu cái dốt của thầy không chỉ được phô bày đầy đủ mà còn được khuếch đại, được nhân lên gấp bội. Đã dốt về chữ, cách chữa dốt của thầy cũng thật buồn cười, ngớ ngẩn, đặc biệt niềm tin và sự “đắc chí” của thầy lại càng khiến thầy bị đẩy lên đỉnh cao của sự ngu dốt.
Khi được chủ nhà nhắc, lúc đó thầy mới biết mình dốt thật. Thế nhưng vì sĩ diện thầy vẫn không nhận mình là dốt. Bằng cái láu cá vặt, thầy nhanh trí bảo vệ mình. Cách phản ứng tức thời của thầy để nói gỡ cho mình: “Dạy cho cháu biết đến tậm tam đại con gà” vô hình chung đã tự phơi bầy khong chỉ bản chất dốt nát mà quan trọng hơn còn cả thói giấu dốt, sĩ diện hão. Tiếng cười phê phán đến đây bật lên thật mạnh mẽ và sâu sắc.
Như vậy, qua các tình huống và cách giải quyết tình huống của nhân vật, người đọc có thể nhận ngay ra một điều: thầy đồ dốt và tìm cách giấu dốt, nhưng càng ra sức che đậy thì bản chất của thầy lại càng hiện ra một cách nhanh chóng.
Ý nghĩa phê phán.
Bằng tiếng cười, truyện tập trung phê phán thói giấu đốt phổ biến ở nhiều đối tượng trong cuộc sống. Bản thân cái dốt và sự thiếu hiểu biết chưa phải là cái đáng cười, cái đáng phê phán, đả kích. Cái đáng cười, đáng phê phán mà nhân dân đề cập ở đây là khi người ta dốt mà biết mình dốt mà vẫn khoe là mình giỏi, lại dám nhận làm thầy dạy người khác, đặc biệt là cố tìm mọi cách để giấu đi cái dốt, che đậy cái dốt của mình. Cố giấu dốt để đề cao mình, bảo vệ mình, thực chất đưa đến một kết cục ngược lại. Tự mình hại chính mình, tự mình lật tẩy chính mình. Đó cũng là bài học mà Tam đại con gà muốn nhắc nhở tất cả mọi người.
Phân tích truyện cười Tam đại con gà – Bài làm 2
Tam đại con gào là câu chuyện vừa mang tiếng cười trào phúng mà độc giả còn có một cái nhìn sâu sắc về cuộc sống, về những câu chuyện xưa. Nó một mặt tập trung vào lột tả những hành động ngược đời, là nguyên nhân gây ra tiếng cười nhưng cũng là cao trào của sự châm biếm , phê phán thói hư tật xấu, đặc biệt là cái dốt. Tam đại con gà cũng giống như những câu chuyện khác của thời xa xưa, vốn giản dị, lấy được tiếng cười nhưng còn lấy được cả sự chiêm nghiệm của con người về cuộc sống.
Với óc sáng tạo của nhân dân ta, kết hợp với những hành động những chi tiết đời thường đã tạo nên vô số những câu chuyện châm biếm rất sâu sắc. Hành động và chi tiết không tới nỗi kịch tích như các tác phẩm trào phúng, nhưng lại dễ dàng đi vào lòng người bởi lối ẩn dụ nhẹ nhàng và mang lại tiếng cười trào phúng cho độc giả.
Các tỉnh huống khó xử khác nhau trong truyện dẫn dắt người đọc đi từ bất ngờ này tới bất ngờ khác và tiếng cười vang lên cũng chính là khi tình huống cuối cùng khép lại. Nó vừa liên tiếp, vừa đẩy tình huống đặc sắc nhất đi tới cao trao. Với tình huống thứ nhất nhằm nói về trình độ của thầy đồ. Giờ dạy học, thầy gặp chữ kê là gà nhưng thầy không nhận ra vì nó có nhiều nét rắc rối, gần giống với chữ tước là chim sẻ. Học trò lại hỏi gấp, thầy cuống lên đành nói liều: Dủ dỉ là con dù dì. Những ông thầy đồ thời xưa,biết một tí chữa,đã dám mang sách đi dạy học,tới khi học trò thông minh hỏi tới lại không biết để đáp lại như thế nào. Với một chi tiết nhỏ này thôi, cũng đã cho thấy học vấn và trình độ của thầy như thế nào rồi. Đặc biệt dạy cho con trẻ, trình độ như vậy mà không biết kê là gà thì quả thực đây là điều đáng buồn.
Chưa dừng lại đó, khi học trò hồn nhiên hỏi gấp, cố tình dồn thầy vào chỗ bí. Thầy đồ chẳng giữ được thể diện của mình trước đám học trò nếu không trả lời được. Đọc chữ kê thành dủ dỉ, rồi giảng bậy dủ dỉ là con dù dì quả là thầy đã đi đến chỗ tận cùng liều lĩnh và tận cùng của sự dốt nát thảm hại.
Tình huống thứ hai là thầy sợ người nào biết thì xấu hổ, mới bảo học trò đọc khẽ. Điều này chứng tỏ rằng thầy liều lĩnh khi dạy trẻ nhưng lại thận trọng trong việc giấu dốt, dùng cái láu cá vặt để gỡ và giấu đi cái dốt của mình. Không những là dốt mà cái đang chú ý ở đây là giấu dốt và lại làm việc đó trước sự ngây thơ của con trẻ. Nhưng tình huống cuối cùng khiến cho chúng ta phải bật ra tiếng cười nhất khi thầy cúng hỏi thổ công xem mình đoán chữ ấy có đúng không. Đây giống như một tình huống gây cười và trào phúng châm biếm nhất, thầy đồ nhờ tới thần linh xem kiến thức của mình ra sao. Khi đã an tâm, thầy cho học trò đọc lớn lên, càng thấy buồn cười, bởi lẽ học trò thì k biết thầy sai mà thầy cũng k biết mình sai nên dốt lại càng dốt..
Nhưng bất ngờ chạm trán với chủ nhà, biết được cái sai của mình, không những không nhận mà còn tìm cách chối cãi và ngụy biện cho cái dốt của mình: Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà. Yếu tố bất ngờ nhất của truyện khép lại thì cũng là lúc tiếng cười phê phán vang lên không dứt.
Câu chuyện “Tam đại con gà” là câu chuyện ngắn gọn xoay quanh một chữ kê nhưng đã vẽ ra được chân dung thảm hại của nhân vật thầy đồ dốt nát cũng là một phần nhỏ trong thời xưa. Đó là một con người “dốt lòi” nhưng lại hay “chối quanh và tài ngụy biện" và luôn cố tìm cách giấu dốt bằng thói ba hoa. Chi tiết nhẹ nhàng đơn giản nhưng lại khiến cho chúng ta có một cái nhìn sâu sắc không chỉ nhân vật mà cả những nét tính cách và thói hư tật xấu của một bộ phận nhỏ trong thời xưa.
Phân tích truyện cười Tam đại con gà – Bài làm 3
Từ lời giới thiệu khái quát đầu truyện đến kết thúc truyện, anh học trò làm thầy dạy trẻ đã tự bộc lộ cái mâu thuẫn trái tự nhiên của mình. Theo lẽ tự nhiên, đi làm nghề thầy đồ là phải hay chữ thì anh ta lại dốt chữ.
Mở đầu truyện, tình huống mâu thuẫn đã được bộc lộ, tức là cái cười đã được mai phục: "Xưa có anh học trò học hành dốt nát, nhưng trò đời “xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ”, đi đâu cũng lên mặt văn hay chữ tốt". Ởanh học trò này chứa đựng mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức, sự trống rỗng, dốt nát bên trong và sự khoe mẽ, lên mặt ta đây giỏi bề ngoài.
Từ sự giới thiệu khái quát chung đó, câu chuyện đi vào những chi tiết cụ thể: anh được mời dạy trẻ vì người ta tưởng anh vãn hay chữ tốt thật.
Vì thực chất kém cỏi, dốt nát mà lại nhận đi làm thầy dạy chữ nên tất nhiên anh học trò dốt phải đối mặt với những tình huống khó xử. Nhân buổi dạy sách Tam thiên tự, có chữ “kê” là gà với nhiều nét rắc rối, không biết chữ gì, học trò lại hỏi gấp, thầy cuống, nói liều "dủ dỉ là con dù dì". Yếu tố hài hước là ở chỗ: thầy đi dạy chữ mà chữ tối thiểu cũng không biết, đã thế lại giấu dốt, dạy sai một cách liều lĩnh.
Do học trò hỏi gấp nên thầy cuống, nói liều chứ thầy cũng biết mình dốt nên bảo học trò đọc khẽ, "trong lòng vẫn thấp thỏm".
Chi tiết thầy khấn thổ công nhà chủ "xem chữ ấy có phải thật là dù dì không" và được thổ công "cho cả ba đài" là chi tiết dẫn dắt hợp lí, tạo cho kịch tính trong truyện tiếp tục phát triển. Trước khi khấn thổ công, thầy còn thấp thỏm, "bảo học trò đọc khẽ". Cách xử lí của thầy có phần thận trọng vì thực chất thầy biết được sự kém cỏi của mình nhưng lại muốn che giấu: "thầy cũng khôn, sợ nhỡ sai, người nào biết thì xấu hổ". Như vậy, ở tình huống khó xử này, thầy đồ đã tự bộc lộ cái dốt của mình. Chú ý cách kể chuyện rất sinh động, chính xác. Khấn thổ công xong, "thầy lấy làm đắc chí lắm, hôm sau bệ vệ ngồi trên giường, bảo trẻ đọc cho to".
Tình huống tiếp theo là hệ quả tất yếu của tình huống thứ nhất. Dốt chữ mà đi dạy chữ, dạy chữ sai mà cứ tưởng là đúng, cho học trò đọc to (mâu thuẫn tăng thêm). Chi tiết bốđứa trẻ là người lao động cuốc đất ngoài vườn cũng biết chữ kê nghĩa là gà (thế mà thầy không biết) – tăng tính hài hước. Tác phẩm tự sự dân giankhông chú ý miêu tả tâm lí nhân vật nhưng truyện cười này đã dành một câu miêu tả ý nghĩ của thầy. Thầy nghĩ thầm: "Mình đã dốt, thổ công nhà nó cũng dốt nữa". Chi tiết này có ý nghĩa quan trọng làm tiếng cười thêm phần thú vị, nhưng cũng để chuẩn bị cho cái đáng cười ở phần tiếp theo. Ý nghĩ ấy khẳng định rằng không phải thầy nghĩ mình đúng mà thực chất là biết mình sai. Biết là sai nhưng tiếp tục giấu dốt, tìm cách chống chế cho cái dốt của mình nên càng kích thích cho tiếng cười phát triển. Quả thật là quá liều lĩnh khi ông đồ rởm nói rằng: "Tôi vẫn biết chữ ấy là “kê”, mà ,“kê” nghĩa là gà, nhưng tôi dạy thế là dạy cho cháu biết đến tận tam đại con gà kia". "Thế này nhé ! Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà!".
Từ lời giới thiệu khái quát đầu truyện đến kết thúc truyện, anh học trò làm thầy dạy trẻ đã tự bộc lộ cái mâu thuẫn trái tự nhiên của mình. Theo lẽ tự nhiên, đi làm nghề thầy đồ là phải hay chữ thì anh ta lại dốt chữ. Nghề gì thì có thể kém chữ chứ chọn nghề thầy mà dốt chữ thì nực cười lắm thay! Truyện cười đã khai thác vào vấn đề bản chất nhất của mỗi đối tượng gây cười. Có thể so sánh với một số truyện cười khác như chuyện thầy lang chữa bệnh bốc thuốc nhầm làm người bệnh chết, thầy cúng không đọc đúng tên người cần cúng vì đọc nhầm sớ của nhà khác,… Các thầy hành nghề vì miếng cơm manh áo mà không có đạo đức nghề nghiệp. Mâu thuẫn khác ở đây là dốt nhưng lại giấu dốt, luôn khoe mình văn hay chữ tốt. Từ mâu thuẫn đó, anh đồ dốt đã tự đưa mình vào những tình huống bất lợi và phải tự bộc lộ mình. Anh ta càng cố che giấu thì người nghe càng nhận thấy sự dốt nát nhưng liều lĩnh, bất chấp đúng sai của anh ta.
Đây là truyện cười trào phúng mang ý nghĩa phê phán cái xấu trong nội bộ nhân dân. Ở đời, dốt làm nghề gì cũng khổ, nhưng làm nghề thầy, dạy chữ cho người mà dốt thì vô cùng tai hại. Vả chăng, nếu biết mình dốt thì phải học hỏi cho tiến bộ chứ chỉ lo giấu dốt, che đậy cái dốt của mình thì anh ta luôn lâm vào tình thế bất lợi và chỉ trở thành trò cười cho thiên hạ. Tuy nhiên tiếng cười ở đây không phải là tiếng cười đả kích nên vẫn làm cho người nghe cười vui vẻ và soi vào tấm gương đó để tự răn mình. Ý nghĩa tích cực của tiếng cười dân gian là ở chỗ đó.
Về mặt nghệ thuật truyện nổi bật ở những điểm sau:
– Mâu thuẫn được bộc lộ ngay từ đầu, không gói kín để tạo bất ngờ như ở một số truyện khác. Tuy nhiên, kịch tính của truyện vẫn tăng cao bởi sự dẫn dắt hợp lí, tự nhiên, sinh động, có sự tăng tiến của các chi tiết tạo được sự bất ngờ thú vị.
– Kết cấu ngắn gọn, chặt chẽ. Các chi tiết đều có ý nghĩa cần khai thác.
– Nghệ thuật kể chuyện sinh động, hấp dẫn. Ngôn ngữ người kể chuyện kết hợp với ngôn ngữ nhân vật (có ưu tiên cho việc thể hiện ý nghĩ của thầy): "thầy lấy làm đắc chí lắm, hôm sau bệ vệ ngồi trên giường, bảo trẻ đọc cho to…".