Phân tích tác phẩm Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (Nguyễn Huy Tưởng) – Văn mẫu lớp 11
Phân tích tác phẩm Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (Nguyễn Huy Tưởng) – Văn mẫu lớp 11 Phân tích tác phẩm Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (Nguyễn Huy Tưởng) – Bài số 1 1. Vị trí của đoạn trích trong vở kịch Vũ Như Tô – Vũ Như Tô là vở kịch ...
Phân tích tác phẩm Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (Nguyễn Huy Tưởng) – Văn mẫu lớp 11
Phân tích tác phẩm Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (Nguyễn Huy Tưởng) – Bài số 1
1. Vị trí của đoạn trích trong vở kịch Vũ Như Tô
– Vũ Như Tô là vở kịch lịch sử gồm năm hồi viết về một sự kiện xảy ra ở kinh thành Thăng Long vào những năm 1516 – 1517.
Lê Tương Dực là một ông vua tàn bạo, hoang dâm, muốn xây dựng Cửu Trùng Đài làm nơi ăn chơi hưởng lạc với các cung nữ. Người có thể giúp y thực hiện ý định ngông cuồng ấy chỉ có Vũ Như Tô, một kiến trúc sư có tài. Nhưng Vũ Như Tô vốn là một nghệ sĩ chân chính lại từ chối (hồi I).
Một cung nữ tên là Đan Thềm khuyên Vũ Như Tô chấp nhận lời yêu cầu của Lên Tương Dục, vì làm như vậy cũng nhằm để xây dựng cho đất nước, cho hậu thế một tòa lâu đài "bền như trăng sao" có thể hãnh diện với nghìn thu, với thế giới. Ông đôn đốc toàn tâm sức vào việc đó sao cho Cửu Trùng Đài thật uy nghi, tráng lệ. Công việc càng tiến triển thì mâu thuẫn giữa nhà vua và phe đối lập của Quân công Trịnh Duy Sản càng trở nên gay gắt, theo đó, mâu thuẫn giữa "tổng công trình sư" Vũ Như Tô với chính những người thợ, những người trợ giúp ông bị phe đối lập chia rẽ, xúi bẩy, đe dọa cũng dần trở nên căng thẳng (hồi II, III, IV).
Lợi dụng tình hình rối ren và những mâu thuẫn đến độ cần giải quyết Trịnh Duy Sản cầm đầu phe đối lập dấy binh nổi loạn, giết Lê Tương Dực, Đan Thềm, Vũ Như Tô và cho thiêu hủy Cửu Trùng Đài (hồi V).
Đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài chính là toàn bộ hồi V của vở kịch Vũ Như Tô, gồm chín lớp kịch. Sự việc diễn ra và đi đến giải quyết ở hồi V được nung nấu và phát triển ở bốn hồi trước: Biết tin có biến, Đan Thềm thúc giục Vũ Như Tô trốn chạy để bảo toàn tính mạng. Vũ Như Tô không nghe và tin rằng ông "chính quang đại minh". Tình hình càng nguy kịch: vua bị giết, Đan Thềm bị bắt và bị sỉ nhục,… Khi quân phản loạn đốt Cửu Trùng Đài thành tro bụi thì Vũ Như Tô mới tỉnh ngộ. Ông đau đớn vĩnh biệt công trình đang dang dở của đời mình và bình thản ra pháp trường.
2. Hai mâu thuẫn cơ bản của vở kịch
a) Mâu thuẫn giữa phe nổi loạn và phe Lê Tương Dực
Cầm đầu phe nổi loạn là Quận công Trịnh Duy Sản. Sau Trịnh Duy Sản là võ sĩ Ngô Hạch, An Hòa Hầu. Vì can ngăn vua không xây Cửu Trùng Đài, đòi giết Vũ Như Tô nhưng không được lại còn bị đánh nhục nhã, Trịnh Duy Sản "giả mượn tiếng đi dẹp giặc rồi quay binh về làm loạn". Chúng đã lợi dụng, xíu bẩy thợ xây Cửu Trùng Đài và dân chúng để lôi kéo họ làm phản phục vụ cho míc đích riêng của phe đối lập trong triều.
Mâu thuẫn này tượng trưng cho mâu thuẫn cơ bản trong xã hội phong kiến: mâu thuẫn giữa bọn thống trị và những người bị trị, giữa lợi ích của hôn quân bạo chúa và quyền sống của nhân dân bị áp bức.
Mâu thuẫn này được thể hiện chủ yếu ở các hồi trước hồi V (xoay quanh việc xây hay không xây Cửu Trùng Đài, việc xây Cửu Trùng Đài đã ngốn bao tiền của, sức lực kể cả tính mạng của người lao động,…), thành cao trào ở hồi cuối cùng (Lê Tương Dực bị giết, các cung nữ bị bắt bớ, nhục mạ; dân chúng hò reo đốt phá Cửu Trùng Đài, nguyền rủa Vũ Như Tô, Đan Thềm,…).
Ở vở kịch Vũ Như Tô, mâu thuẫn thứ nhất là cái cớ, làm nền cho ý tưởng mà nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đau đáu gửi gắm qua việc đề cập đến mâu thuẫn thứ hai của vở kịch.
b) Mâu thuẫn giữa khát vọng nghệ thuật của người nghệ sĩ và lợi ích thiết thực của nhân dân
Sự hình thành và diễn biến của mâu thuẫn này trong các hồi kịch trước gắn với câu truyện xây Cửu Trùng Đài với những chuyển động trái chiều nhau, diến biến với các xung đột dữ dội và dẫn đến kết thúc với nhiều xác chết, trên nền lửa đỏ lẫn tro bụi của Cửu Trùng Đài, Vũ Như Tô bình thản ra pháp trường….
Mẫu thuẫn thứ hai ở hồi V, bị đẩy lên đỉnh điểm. Nếu như ở bốn hồi trước, nó chỉ là mâu thuẫn tiền ẩn bên trong mâu thuẫn thứ nhất thì ở cuối đoạn trích, nó được hòa nhập làm một. Chính mâu thuẫn thứ hai này là "lỗi lầm bi kịch" của Vũ Như Tô – người kiến trúc sư có tài ấp ủ một hoài vọng "đem hết tài ra xây cho nòi giống một tòa đài hoa lệ, thách cả những công trình sau trước, tranh tinh xảo với hóa công". Vũ Như Tô theo lời khuyên của Đan Thềm tưởng rằng có thể mượn thế lực và đồng tiền của bạo chúa để thực hiện được khát vọng nghệ thuật chính đáng của mình. Ông đã bất chấp tất cả – tiền của, mồ hôi, xương máu của bao người thợ, thậm chí cả sức lực và tính mạng của bản thân. Chính sự đắm chìm trong công trình Cửu Trùng Đài cao cả, dần dần ông đã mất hẳn chỗ đứng trong cuộc đời, hơn thế nữa, thành kẻ bị cô lập, cô độc và cuối cùng phải nhận cái chết thảm khốc. Đấy là bi kịch của một nghệ sĩ "thuần túy", một kẻ mơ hồ, ngây thơ về chính trị, không biết đứng về phía nhân dân. Từ một người phản đối nhu cầu ăn chơi sa đọa của kẻ thống trị, vô hình trung ông lại tự biến mình thành kẻ tiếp tay cho bọn thống trị; từ một người biết tôn trọng lao động của nhân dân, ông đã vô tình làm khổ họ, đày đọa và li tán bao gia đình; từ một người yêu đất nước, ông trở thành một kẻ hại dân hại nước… Vũ Như Tô đâu có biết rằng có bao chuyện còn cần thiết hơn việc xây dựng Cửu Trùng Đài, có những thứ còn quý hơn cả nghệ thuật kiến trúc. Tách rời lợi ích của đại đa số nhân dân lao động, tách rời cuộc sống, nghệ thuật không thể tồn tại, tài năng của người nghệ sĩ không thể phát triển.
Việc giải quyết mâu thuẫn thứ hai của vở kịch được tiếp nhận với nhiều ý kiến khác nhau trong nhiều năm qua. Tạo được cái kết "bỏ ngỏ" đầy ám ảnh khiến người đọc nhiều thế hệ sau tiếp tục tìm lời giải đáp là một nỗ lực không nhỏ của người viết vào những năm ông còn băn khoăn "tìm đường" đó.
3. Tính cách, diễn biến tâm trạng của Vũ Như Tô, Đan Thềm
a) Tính cách, diễn biến tâm trạng của Vũ Như Tô
Vũ Như Tô là hình tượng nhân vật biểu tượng cho niềm khát khao sáng tạo và đam mê cái đẹp. Ở những hồi kịch trước, nhà văn đã chuẩn bị cho người đọc cuộc kì ngộ giữa Vũ Như Tô, người có tài đam mê cái đẹp, và Đan Thềm, người cung nữ tài sắc, thâm trầm đam mê cái tài, để từ đó, tính cách nhân vật này được phát triển theo sự tiến triển của câu chuyện xây Cửu Trùng Đài đầy trắc trở, mâu thuẫn thứ nhất được giải quyết một phần nhưng lại là sự khởi đầu của một mâu thuẫn mới, chuẩn bị cho một cao trào mới. Từ lúc thà chết chứ không xây đài cao cho hôn quân bạo chúa đến lúc được Đan Thềm khai mở, ông đã đắm chìm trong mộng tưởng sáng tạo là hai mặt mâu thuẫn nhưng thống nhất trong tính cách nhân vật Vũ Như Tô – nghệ sĩ. Với Vũ Như Tô, Cửu Trùng Đài không còn là tòa lâu đài của bạo chúa; nó trở thành biểu tượng của cái đẹp mà kẻ sĩ như ông phải dốc toàn tài, nó thành lẽ sống của cả đời kẻ sĩ.
Diễn biến tâm trạng qua các lời thoại của Vũ Như Tô chín lớp kịch trong hồi cuối xoay quanh việc tìm lời giải đáp cho câu hỏi lớn trong tâm tưởng của ông; "Xây Cửu Trùng Đài là đúng hay sai?", "Việc ông đang làm là có công hay có tội?". Bi kịch của Vũ Như Tô là ở chỗ ông không tự giải đáp được câu hỏi tưởng chùng như đơn giản đó, bởi ông chỉ đứng trên lập tường của cái đẹp "thuần túy" mà xa rời cuộc sống của nhân dân, vô tình làm phương hại đến lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Hành động mà ông lựa chọn và quyết định (không theo lời khuyên của Đan Thềm là phải chốn chạy để bảo toàn tính mạng) chứng tỏ con người này không thể điều hòa nổi sự mâu thuẫn giữa lợi ích dân tộc lâu dài (xây Đài để khẳng định địa vị của dân tộc Việt Nam trước các dân tộc khác) và thực tế đời sống trước mắt của đại bộ phận nhân dân (Đài càng cao thì càng mất nhiều tiền của, công sức của thợ, của dân…). Ông không tỉnh táo bằng Đan Thềm, vẫn quá tự tin vào ý tưởng tốt đẹp của mình nên khi giấc mộng nghệ thuật của đời ông sụp đổ (Cửu Trùng Đài bị thiêu hủy) ông đau đớn kinh hoàng. Nỗi đau ấy bật thành tiếng rú tuyệt vọng: "Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thềm! Ôi Cửu Trùng Đài!". Tiếng kêu đó rồi cũng bị ngọn lửa thiêu hủy Cửu Trùng Đài nuốt chửng. Trên nền lửa đỏ tro tàn ấy, người kiến trúc đầy ảo tưởng biết mình thế là hết. Trong cảnh bát nháo, náo loạn giữa triều đình và phe nổi loạn, ông bình thản ra pháp trường.
Diễn biến tâm trạng của Vũ Như Tô ở hồi V góp phần hoàn chỉnh tính cách bi kịch ở nhân vật chính, làm nổi rõ hướng giải quyết mâu thuẫn thứ hai của vở kịch và cũng là chủ đề của tác phẩm Vũ Như Tô.
b) Tính cách, diễn biến tâm trạng của Đan Thềm
Nếu như Vũ Như Tô là người đam mê cái đẹp thì Đan Thềm là người đam mê cái tài, tài sáng tạo cái đẹp. Cái tài mà nàng trọng phải là cái tài có ích, cái tài ấy phải được thi tố trong việc tô điểm cho đất nước, nâng cao địa vị cho dân tộc. "Bệnh" của Đan Thềm là bệnh của người tài, người có hoài bão đam mê sáng tạo. Ước mong cháy bỏng của người cung nữ này là làm sao để đất nước có một Cửu Trùng Đài tráng lệ. Đó là một ước mơ đẹp của một con người có nhân cách, có tinh thần dân tộc. Ở các hồi trước, Đan Thềm đã thuyết phục Vũ Như Tô chấp nhận yêu cầu của Lê Tương Dực với mục đích "làm cho đất Thăng Long này trở thành nơi kinh kì lộng lẫy nhất trần gian". Và thế là, cũng như Vũ Như Tô, Cửu Trùng Đài trở thành lẽ sống của phần đời còn lại của người lạ lùng này nơi cung dinhd. Nàng tìm cách lợi dụng bọn quan lại, vui niềm vui của những người thợ và sung công mọi đồ tế nhuyễn để xây Đài. Có biến, Đan Thềm không nghĩ đến sự sống còn của bản thân mà đi tìm Vũ Như Tô, hai lần van lạy ông hãy mau chốn tránh và nghĩ rằng nếu ông mất đi thì "nước ta không còn ai tô điểm nữa". Khi quân nổi loạn đến, Đam Thềm cam chịu sỉ nhục, quỳ xuống van xin tên võ sĩ Ngô Hạch tha cho Vũ Như Tô: "Bao nhiêu tội tôi xin chịu hết. Xin tướng quân tha cho ông Cả. Ông ấy là một người tài". Khi bị quân Ngô Hạch trói lại, nàng vô cùng tuyệt vọng vì biết rằng không thể cứu được Vũ Như Tô đã đau đớn vĩnh biệt ông: "Ông Cả! Đài lớn tan tành! Ông Cả ơi! xin cùng ông vĩnh biệt!".
Diễn biến tâm trang của Đan Thềm trong bảy lớp kịch ở hồi V góp phần thể hiện toàn vẹn tính cách bi kịch của Vũ Như Tô, làm rõ hơn sự giải quyết mâu thuẫn thứ hai và cũng là chủ đề của vở kịch.
4. Lời tựa vở kịch Vũ Như Tô
Ngày 8-6-1942, Nguyễn Huy Tưởng chép lại vở kịch viết xong từ mùa hạ năm 1941 và đặt bút viết Đề tựa cho nó. Chắc hẳn ông linh cảm được rằng những suy tư, dằn vặt mà mình gửi gắm vào tác phẩm không dễ được tiếp nhận. Ông viết Đề tựa dường như để nói rõ hơn, cụ thể hơn với ý đồ nghệ thuật của mình nhằm để người đọc thấu hiểu cho ông.
Trong lời tựa, Nguyễn Huy Tưởng đã tóm tắt nội dung vở kịch Vũ Như Tô bằng ba câu hỏi buộc phải lựa chọn đầy băn khoăn, đặc biệt nhắc lại nhức nhối hai lần câu: "Vũ Như Tô phải hay những kẻ giết Vũ Như Tô phải?". Ông nói rằng: "Ta chẳng biết", thực ra ông biết rất rõ. Cái ý của ông thể hiện qua lời thoại của nhân vật Đan Thềm là nhà văn cảm phục từ "tài trời" và sức sống bất diệt của người dân Việt, đồng thời là tủi hổ cho nỗi thiệt thòi của người dân Việt. Việt Nam đâu thiếu người tài, vậy mà chỉ vì miếng cơm manh áo hằng ngày ghì họ sát đất nên họ không phát triển về đường văn hóa nghệ thuật bằng người. Trước thực tế lịch sử đó, người cầm bút yêu dân yêu nước ngậm ngùi thấy mình "cùng một bệnh với Đan Thềm" cũng là điều dễ hiểu. "Bệnh Đan Thềm" là sự khao khát được thăng hoa sáng tạo những tài năng trong mỗi người cho đất nước, cho dân tộc
Phân tích tác phẩm Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (Nguyễn Huy Tưởng) – Bài số 2
-
NGUYỄN HUY TƯỞNG VÀ PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT
Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960) xuất thân trong một gia đình nhà nho ờ làng Dục Tú, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông tham gia cách mạng từ rất sớm, hoạt động trong những tổ chức văn hóa văn nghệ do Đảng lãnh đạo.
Tác phẩm chính gồm các vở kịch: Vũ Như Tố (1941), Bắc Sơn (1946), Những người ở lại (1948), kịch bản phim Lũy hoa (1960); các tiểu thuyết: Đêm hội Long Trì (1942), An Tư (1945), sống mãi với Thủ đô (1961); Kí: Kí sự Cao – Lạng (1951).
Nguyễn Huy Tưởng có thiên hướng khai thác đề tài lịch sử và có nhiều đóng góp nổi bật ở thể loại tiểu thuyết và kịch. Văn phong của ông vừa giản dị trong sáng, vừa đôn hậu thâm trầm, sâu sắc. Năm 1996, ông được nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
2. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM
Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài được trình diễn trong vở kịch Vũ Như Tô. Đây là vở kịch xuất sắc nhất của Nguyễn Huy Tưởng và của nền kịch Việt Nam hiện đại. Vũ Như Tô là một vở kịch lịch sử viết về một sự kiện xảy ra ỏ thành Thăng Long khoảng 1516 — 1517, dưới triều Lê Tương Dực. Tác phẩm được Xguyễn Huy Tưởng viết xong vào mùa hè năm 1941.
Đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài thuộc hồi V – hồi cuối cùng của vở kịch.
3. THỂ LOẠI – NỘI DUNG – NGHỆ THUẬT – GIẢ TRỊ
-
Thể loại
Vũ Như Tô là một vở bi kịch lịch sử. Bi kịch là một thế của loại hình kịch. Ngoài các đặc điểm chung của loại hình, bi kịch còn có những đặc điểm riêng rủa nó. Xung đột bi kịch được tạo dựng từ những mâu thuẫn không thể giải quyết được. Nhân vật chính của bi kịch thường là những anh hùng, những con người có niềm say mê, khát vọng lớn lao. Kết thúc bi thảm của số phận nhân vật bi kịch thường có ý nghĩa thức tỉnh, khơi gợi tình cảm nhân văn của mỗi ron người.
-
Nội dung
Vở kịch Vũ Như Tô xoay quanh hai mâu thuẫn lớn, đó là mâu thuẫn giữa nhân dân lao động khốn khổ lầm than với bọn hôn quân bạo chúa và phe cánh của chúng sống xa hoa, trụy lạc. Mâu thuẫn thứ hai là mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật cao siêu, thuần túy của muôn đời và lợi ích trực tiếp thiết thân của nhân dân.
Ở đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài, những mâu thuẫn đó đã lên đến đỉnh điểm và nó đã trở thành bi kịch.
Đoạn trích xoay quanh bi kịch của Vũ Như Tô, đó là bi kịch của người nghệ sĩ có tài và có hoài bão lớn, nhưng không giải quyết được mối quan hệ phức tạp giữa nghệ thuật và đời sống, đặc biệt là không giải quyết được thực sự đúng đắn vấn đề sáng tạo nghệ thuật cho ai và để làm gì.
Vũ Như Tô muốn xây dựng một công trình kiến trúc vĩ đại. tô diểm cho non sông, đất nước xuất phát từ lí tưởng của một người nghệ sĩ, từ lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Nhưng Cửu Trùng Đài lại được xảy trên tiền của, mồ hôi, xương máu của nhân dân đồng thời lại dùng cho việc ăn chơi sa đọa của vua chúa. Chính vì vậy mà ông bị nhân dân căm hận, oán trách, nguyền rủa và cuối cùng giết chết.
Vũ Như Tô đã sai lầm khi lợi dụng quyền lực của bạo chúa để thực hiện khát vọng của mình. Chính vì sai lầm đó mà ông đã phải trả giá bằng sinh mạng và cả công trình nghệ thuật của mình.
Qua bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả muôn nói rằng: Không có cái đẹp tách rời cái chân, cái thiện. Tác phẩm nghệ thuật không chỉ mang vẻ đẹp thuần túy mà phải phục vụ thiết thực cho cuộc sống của nhân dân. Người nghệ sĩ phải có hoài bão lớn, có khát vọng sáng tạo những công trình vĩ đại cho muôn đời nhưng khát vọng đó phải phù hợp với điều kiện thực tế của cuộc sống, với ước mơ và nguyện vọng của nhân dân.
-
Nghệ thuật
Đoạn trích đã thể hiện được những đặc sắc về nghệ thuật kịch của Nguyễn Huy Tưởng, ngôn ngữ kịch điêu luyện, có tính tổng hợp cao. Ở đây, tác giả dùng ngôn ngữ, dùng hành động của nhân vật để khắc họa tính cách, miêu tả tâm trạng, dẫn dắt và đẩy xung đột kịch lên đến cao trào.
-
Giá trị
Là một vở kịch lịch sử, Vũ Như Tô đã cho người đọc thấy được sự kiện lịch sử xảy ra ở Thăng Long khoảng năm 1516 – 1517 dưới triều Lô Tương Dực Việc xây dựng Đài Cửu Trùng lúc bấy giờ đã làm cho nhân dân vô cùng phẫn nộ. Cuối cùng nhân dân nổi loạn giết chết vua Lê Tương Dực và Vũ Như Tố đốt cháy Cửu Trùng Đài – công trình được xây dựng bằng chính mồ hôi, xương máu của họ. Đồng thời vở kịch cũng cho chúng ta thấy được cuộc sống xa hoa, trụy lạc của bọn hôn quân bạo chúa dưới thời vua Lê Tương Dực.
Thông qua bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả muốn gửi gắm đến thế hệ mai sau bức thông điệp rằng: Không có cái đẹp tách rời cái chân, cái thiện. Tác phẩm nghệ thuật không chỉ mang vẻ đẹp thuần túy mà phải phục vụ thiết thực cho cuộc sống của nhân dân. Sáng tạo nghệ thuật trước hết là để phục vụ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân nếu không công trình nghệ thuật đó sẽ vô nghĩa và đổ vỡ. Đồng thời ông yêu cầu xã hội phải biết tạo điều kiện sáng tạo cho các tài năng, vun đắp tài năng, phải biết quý trọng, nâng niu những sản phẩm nghệ thuật đích thực.
Phân tích tác phẩm Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (Nguyễn Huy Tưởng) – Bài số 3
Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng, cũng như những nhân vật chính, còn gọi là nhân vật anh hùng (héros) của bi kịch, là một con người quá khổ, ta muốn nhận biết nó thì phải đo nó bằng cái thước của nó, chứ không phải của ta.
Vũ Như Tô, cũng như Hamlet, như Coriolanus, như vua Lia (Lear), không phải là người tốt theo nghĩa thông thường. Con người tốt bụng, con người hiền từ hay mềm yếu, mà sự mềm yếu là “phản chỉ định” đối với nhân vật bi kịch. Con người hiền từ yếu đuối, thụ động hứng chịu, quằn quại rên xiết dưới những đòn đánh không hiểu nổi của số phận là đối tượng của kịch mêlô (mélodrame) ở châu Âu, kịch cải lương ở ta. Vũ Như Tô, nhân vật bi kịch, chủ động vùng dậy chống lại số phận, không đợi nó đánh mình, thách thức số phận xây Cửu Trùng Ðài.
Nguyên nhân, lực đẩy của tính chủ động cao độ ấy ở nhân vật bi kịch là niềm say mê (passion), trong trường hợp Vũ Như Tô là say mê sáng tạo. Niềm say mê ấy như là thuốc súng, như là ét-xăng nằm sẵn bên trong nhân vật bi kịch, chỉ chờ được châm để nổ cháy. Trong kịch của Nguyễn Huy Tưởng, người châm cho say mê nơi Vũ Như Tô bốc lửa là Ðan Thiềm (điểm thắt nút của kịch). Không phải Ðan Thiềm đã thuyết phục hay dụ dỗ họ Vũ xây Cửu Trùng Ðài, khát vọng xây Cửu Trùng Ðài sục sôi sẵn trong Vũ Như Tô, chỉ cần một lời khích lệ từ bên ngoài là nó chuyển hóa thành hành động. Bản đồ Cửu Trùng Ðài đã được vẽ sẵn, mọi tính toán kinh tế – kỹ thuật đã được hoàn tất trước khi nhà kiến trúc sư thiên tài gặp mỹ nữ có tâm hồn. Mối băn khoăn xuất phát từ lương tâm kẻ sĩ (bây giờ ta gọi là lương tâm công dân) về việc phục vụ cho hôn quân bạo chúa, đi ngược lại quyền lợi của quần chúng nhân dân, mà chính họ Vũ với vợ con và bạn bè đồng nghiệp là thành phần, được tháo gỡ rất dễ dàng mà không làm giảm sức thuyết phục nghệ thuật của nhân vật và của cả tác phẩm. Từ giây phút ấy, ngọn lửa đam mê cứ thế mà cháy, càng gặp trở ngại càng cháy cao. Vũ Như Tô, mượn tay Lê Tương Dực cuồng bạo, hành động hối hả và quyết liệt, lo sợ công trình của mình sẽ không hoàn thành. Trong sử liệu, Cửu Trùng Ðài xây từ năm này sang năm khác, thời gian của bi kịch được thu rút lại trong vòng 10 tháng. Người thợ cả đôn hậu trong đời thường không ngần ngại giết hết tất cả những ai chống lại công trình của y. Trong y, không có chỗ cho những băn khoăn trăn trở về cái giá mà nhân dân phải trả cho tác phẩm nghệ thuật tuyệt mĩ của y. Bao nhiêu công của phải đổ vào, bao nhiêu tính mạng phải hy sinh cũng đều là hợp đích trong con mắt người nghệ sĩ bị ám ảnh bởi đồ án lý tưởng của mình. Một trong những lớp kịch hay nhất (hồi 4, lớp 1): Vũ Như Tô gặp vợ lần cuối cùng, Thị Nhiên kể cho chồng về cảnh đói kém, mất mùa, giặc nổi lên như châu chấu ở quê nhà, con cái ốm đau quặt quẹo không được cha chăm nom… Họ Vũ, đã què chân vì ngã từ nóc xuống, nghe mà không nghe thấy, toàn bộ tâm trí bị cuốn hút bởi cảnh quan tráng lệ của Cửu Trùng Ðài. “Khi con người ở trong nghệ thuật, nó vắng mặt ở trong cuộc sống, và ngược lại”(6) – đó là trạng thái bi kịch (theo nghĩa triết học) muôn thuở của nhân sinh, được phản ánh cả ở trong vở kịch của Nguyễn Huy Tưởng. Ðối với Vũ Như Tô, Cửu Trùng Ðài quý hơn tính mạng của chàng, cái đó thật đáng yêu và đáng phục. Nhưng Cửu Trùng Ðài còn quý hơn hạnh phúc và sự sống của hàng trăm, hàng ngàn con người khác, cái đó thì lại đáng sợ rồi. Theo đuổi cái đẹp thuần túy, biến nó không những thành giá trị tự thân, mà còn thành thần tượng độc tôn, người nghệ sĩ thiên tài đã phạm tội trước nhân dân, trước nhân loại, trước sự sống. Cái chết của Vũ Như Tô, xét từ một góc độ xác định, là hợp lý, là xứng đáng. Ðó là cái chết chuộc tội, mặc dù nhân vật kịch không ý thức được điều đó.
Như chúng ta biết, tội lỗi bi kịch là một khái niệm mấu chốt trong lý thuyết bi kịch. Không có tội lỗi bi kịch, cũng như không có xung đột bi kịch thì không có tác phẩm bi kịch. Nhưng tội lỗi bi kịch khác những kiểu tội lỗi khác ở chỗ nào? Hơn hai ngàn năm sau Thi pháp học của Aristote, triết gia và nhà văn hiện sinh chủ nghĩa tiền khu Kierkegaard khẳng định: “Nếu con người hoàn toàn vô tội, bi kịch mất hết lý thú, bởi vì sẽ mất đi sức mạnh của xung đột bi kịch; mặt khác, nếu nhân vật tự nó có lỗi hoàn toàn, thì nó sẽ không thể khiến ta quan tâm, xét từ quan điểm bi kịch”(7). Có nghĩa là nhân vật bi kịch phải vừa có tội, lại vừa không có tội (đây là điểm khu biệt bi kịch với kịch anh hùng, ở ta là kịch tuồng, trong đó những nhân vật anh hùng chính trực một trăm phần trăm đấu tranh với những nhân vật gian ác hèn hạ cũng một trăm phần trăm). Các nhân vật bi kịch điển hình trên kịch trường (và sau này cả trong tiểu thuyết) thế giới đều là như thế. Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng, như chúng tôi đã cố gắng chứng minh, cũng là nhân vật như thế, cũng vừa có tội, mà tội lớn, lại vừa không có tội, hay là, như một trong những nhà phê bình đầu tiên ở ta bình về tác phẩm này nói theo lối nói điển hình Việt Nam, “có chỗ đáng giận, có điều đáng thương”(8). Cho nên, không có gì đáng ngạc nhiên là, sáng tác xong vở kịch, tác giả thấy cần phải viết thêm mấy dòng Ðề tựa nổi tiếng, trong đó nhắc lại hai lần: “Chẳng biết Vũ Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải?” Câu hỏi này, theo chúng tôi, không thể hiện sự hạn chế về tư tưởng của tác giả, mà nó chứng tỏ rằng tác giả, có thể chỉ bằng trực giác sáng tạo, cảm nhận rất rõ cái bản chất bi kịch của trước tác của mình. Bi kịch, thể loại lớn của văn học và sân khấu, bao giờ cũng đặt độc giả và khán giả trước những câu rất phức tạp, hóc búa và nhức nhối của cuộc sống. Những câu hỏi ấy không chờ đợi những giải đáp vội vã, dễ dãi, đơn giản. Cho nên thiết nghĩ cũng không nên vì cảm thông và mến yêu Vũ Như Tô mà gọi tội của nhân vật này là “tội thiêng liêng”(9). Như thế từ “thiêng liêng” bị mất nghĩa, mà tính chất của cái tội ở nhân vật vừa đáng yêu, vừa đáng sợ này lại không được thâu tóm.
Ðể làm sáng tỏ hơn cái tội bi kịch của Vũ Như Tô, xin được đi sâu một chút vào lịch sử khái niệm này. Bi kịch, như chúng ta biết, ra đời ở Hy Lạp cổ đại và liên quan mật thiết với tôn giáo và minh triết của dân tộc này. Người Hy Lạp thờ nhiều thần linh, mà mỗi thần hiện thân cho một sức mạnh bản thể nào đó. Tôn giáo Hy Lạp đòi hỏi sùng kính tất cả các thần, không được coi thường một thần nào. Trong bi kịch rất nổi tiếng Hippolyte của Euripide, chàng trai thủ tiết Hippolyte, vì chỉ tôn sùng thần trinh nữ Artémis và khinh rẻ nữ thần Aphrodite mà đã bị Aphrodite trừng phạt, truyền cho Phèdre, mẹ kế của Hippolyte, tình yêu điên rồ đối với chàng; tình yêu ấy cuối cùng đã giết chết Hippolyte. Tội bi kịch của Hippolyte là đã ái mộ chỉ một Artémis (sự trinh tiết) và rẻ rúng Aphrodite (tình yêu). Nếu dịch ra ngôn ngữ khái niệm của xã hội thế tục hóa hiện đại, thì Hippolyte đã đề cao quá mức một giá trị của nhân sinh và coi thường quá mức một giá trị khác. Ðây là một trong những kiểu lầm lỗi cơ bản của con người và loài người, trong văn học được thâu tóm bằng phạm trù tội lỗi bi kịch(10). Mọi say mê của con người, nhất là những say mê chính đáng, cao thượng, giàu tính nhân văn, càng nồng cháy bao nhiêu thì càng tiềm ẩn nhiều nguy cơ này bấy nhiêu. Có thể tranh luận cái này có thuộc về bản chất bất hoàn hảo không thay đổi của con người hay không (hệ quả của “tội lỗi tổ tông”, theo tư duy thần học), nhưng rõ ràng lỗi lầm bi kịch có tính phổ biến, tính toàn nhân loại. Lỗi lầm của Vũ Như Tô trong kịch Nguyễn Huy Tưởng là như thế. Chàng rất cao thượng trong khát vọng và ý chí sáng tạo của mình, nhưng chàng đã độc tôn cái Ðẹp nghệ thuật, đặt nó lên trên mọi giá trị cơ bản khác, tuân thủ chỉ một mệnh lệnh của cái Ðẹp và dửng dưng với mệnh lệnh của cái Thiện. Ðây là cốt lõi của cái lỗi bi kịch ở nhân vật anh hùng này.
Trong Nhật ký tư tưởng của Nguyễn Huy Tưởng, ta bắt gặp một ý kỳ lạ, ghi ngày 23-2-1932, lúc nhà văn tương lai chưa đầy hai mươi tuổi; nó như báo trước cái nút khó tháo của những vấn đề triết lý của kịch Vũ Như Tô: “Cái đẹp do ở sự giai cấp bất bình đẳng, cái sướng do ở sự giai cấp bình đẳng”(11). “Cái sướng” ở đây có lẽ chỉ hạnh phúc, mà hạnh phúc chung, hạnh phúc ấy chỉ có thể đạt được khi thực hiện bình đẳng giai cấp – một mệnh lệnh cơ bản của cái Thiện. Nhưng được cái Thiện thì lại mất cái Ðẹp gắn liền với bất công xã hội, bất bình đẳng giai cấp (tư tưởng này khá uyên thâm, xin trở lại với nó sau). Phải chọn một trong hai cái, và Vũ Như Tô, nhân vật ra đời mười năm sau những dòng viết trên, đã dứt khoát và quyết liệt chọn cái Ðẹp.
Cho đến giờ, chúng tôi mới chỉ nói đến lỗi lầm của nhân vật số một (protagoniste), nhưng trong bi kịch còn có nhân vật số hai, đối kháng (antagoniste) – quần chúng nhân dân. Quần chúng nhân dân cụ thể, chứ không trừu tượng ấy, trong lịch sử và trong kịch của Nguyễn Huy Tưởng đã chọn không suy nghĩ đắn đo chỉ một cái Thiện như họ hiểu nó, và chà đạp, hạ nhục không thương tiếc cái Ðẹp. Nhân vật đối kháng tập thể, cũng hệt như nhân vật nguyên khởi, đã phạm tội lỗi bi kịch. Trong bi kịch thực thụ không có người chiến thắng. Tính cao cả đặc biệt của nó là ở chỗ ấy.
Ai ai cũng biết giới thuyết của Aristote về hiệu ứng tâm lý của bi kịch: nó gây sợ hãi và xót thương. Nhưng cái đó chưa đủ và không phải là cái chính. Hành động bi kịch phải dẫn đến sự thanh tẩy (catharsis) những cảm xúc ấy. Sự thanh tẩy này đạt được bằng và nhờ sự giác ngộ cái lẽ sâu kín của những khổ đau bất hạnh đã đến với các nhân vật kịch. Ðây cũng là điểm quan trọng khu biệt bi kịch với kịch mêlo hay kịch cải lương. ở những thể loại này, hiệu ứng xót thương đến trào nước mắt, đến ngất xỉu là đặc trưng và tự đủ. Vũ Như Tô, tác phẩm bi kịch, không làm ta rơi nước mắt, nhưng nó bắt ta suy ngẫm về cái lẽ, cái nghĩa sâu xa của những gì ta đã đọc hoặc đã thấy (trên sân khấu). Ðó là hiệu ứng catharsis chậm.
Có những bi kịch có dụng ý giúp đỡ độc giả hay khán giả thực hiện catharsis bằng cách để cho các nhân vật, ở điểm tháo nút, tự giác ngộ ý nghĩa của những gì đã xảy ra (thí dụ, Oedipe làm vua hay Othello). Nhưng đa số các tác phẩm bi kịch phó thác nhiệm vụ ấy cho người đọc, người xem. Vũ Như Tô thuộc loại thứ hai. Cho đến phút bị chém đầu, nhân vật anh hùng này vẫn đinh ninh: toàn bộ chân lý và lẽ phải thuộc về một mình chàng với Ðan Thiềm, toàn bộ tội tầy trời thuộc về “đảng ác” đã đốt phá Cửu Trùng Ðài. Mặt khác, dân chúng, binh sĩ nổi loạn cũng chỉ biết hả hê là đã loại trừ được nguyên nhân trực tiếp của những tai họa của họ. Nhưng toàn bộ hành động kịch khiến chúng ta, sau những phút giây xúc động mạnh, suy nghĩ dai dẳng theo nhiều hướng, cố tìm tới cái catharsis không thể thiếu được. Xin phác thảo một vài hướng suy nghĩ của cá nhân, mong được trao đổi với các đồng nghiệp.
Chúng ta, những con người, luôn luôn lầm lạc trong hành động lẫn tư duy. Ðề cao cái Chân, cái Thiện, cái Ðẹp như những giá trị cao nhất của nhân sinh (thực ra, còn nhiều giá trị tuyệt đối khác: cái Thiêng, Tình yêu, Tự do…), chúng ta, bị câu thúc bởi thực tiễn xã hội và bị chi phối bởi kiểu tư duy trừu tượng hóa, chủ biệt chứ không chủ toàn ngày càng thống ngự đời sống tinh thần của loài người, rất dễ xem chúng như những giá trị độc lập, có thể tồn tại riêng biệt, cái này không có cái kia vẫn được. Từ đấy mà ta lại càng dễ hy sinh, dễ thí giá trị này cho giá trị kia. Trong khi ấy trong cuộc sống lý tưởng, tức là cuộc sống duy nhất xứng đáng với con người, mọi giá trị phải tồn tại viên mãn, không lấn át mà nâng đỡ, bổ sung hài hòa cho nhau. Bi kịch của Nguyễn Huy Tưởng nhắc nhở chúng ta về mối họa lớn của sự tách rời và đối nghịch hóa các giá trị. Nó chứng minh đầy thuyết phục rằng cái Ðẹp tự sát, khi nó nhảy múa trên thân thể quằn quại của cái Thiện, nhưng giết cái Ðẹp vì cái Thiện cũng là giết luôn cả cái Thiện.
Trên đây chúng tôi vừa dẫn một tư tưởng tổng kết rất cô đúc của Nguyễn Huy Tưởng: “Cái đẹp do ở sự giai cấp bất bình đẳng…” Như chúng tôi hiểu, ý nhà văn muốn nói, cái đẹp nhân tạo (không phải cái đẹp thiên tạo) ra đời trong xã hội bất bình đẳng và luôn luôn phục vụ cho những giai cấp thống trị, bị những giai cấp ấy chiếm hữu. Ðây quả là mâu thuẫn cơ bản và bi kịch của cả văn minh loài người, và chính kịch Vũ Như Tô phản ánh một cách nổi bật mâu thuẫn ấy. Mâu thuẫn này nhiều khi trở nên gay cấn đến nỗi một thiên tài sáng tạo đúng là “ngàn năm chưa dễ có một” như L. Tolstoi (mà Nguyễn Huy Tưởng rất ái mộ), đã cương quyết chối từ cả cái Ðẹp lẫn toàn bộ văn hóa, văn minh, kêu gọi loài người trở lại và tự ông cũng cố trở lại với cuộc sống tự nhiên, mộc mạc của những con người làm ruộng chân lấm tay bùn – cái cuộc sống mà trong kịch của Nguyễn Huy Tưởng, Thị Nhiên (chỉ một cái tên của nữ nhân vật này đã là một sáng tạo đáng phục!) kêu gọi Vũ Như Tô trở về. Nhưng nhân loại đã không nghe theo một trong những người thầy đáng kính đáng yêu nhất của nó. (Có thể một phần bởi lẽ ông thầy này, cũng như nhiều ông thầy lớn khác, muốn trở thành vị thầy duy nhất). Nó đã không chối từ những giá trị siêu đẳng, chỉ vì chúng đương bị một thiểu số không xứng đáng chiếm giữ, để thỏa mãn với chỉ những giá trị sơ đẳng, vừa tầm với tuyệt đại đa số. Bởi vì hàng trăm hàng ngàn đình làng mà Thị Nhiên nhắc đến không thay thế được một Cửu Trùng Ðài. Nhưng quan hệ giữa cái siêu đẳng và cái sơ đẳng trong văn hóa là tương hỗ, nuôi dưỡng lẫn nhau. Không có cái siêu đẳng, cái sơ đẳng càng quảng bá càng trở nên thô kệch. Nhưng cắt đứt quan hệ với cái sơ đẳng (“cái tự nhiên” hay là “đất” của văn hóa), cái siêu đẳng tự làm cho mình mất đi nhựa sống. Bệnh Ðan Thiềm trong kịch của Nguyễn Huy Tưởng (không phải trong lời Ðề tựa!) là bệnh khát khao và quý giá chỉ một cái đẹp siêu đẳng. Cái đó có thể châm chước cho nàng, nhưng nếu họ Vũ chỉ say đắm Ðan Thiềm và quên hẳn Thị Nhiên, thiên tài của chàng sẽ cạn kiệt.
Một trong những hiệu ứng tâm lý quan trọng nữa của bi kịch là ưu tư bi kịch(12). Bi kịch được viết không phải để truyền cho ta niềm vui sống hay an ủi ta trong những khổ đau, có những thể loại khác phục vụ những nhu cầu ấy. Bi kịch khiến chúng ta lo lắng cho vận mệnh của những giá trị lớn của xã hội và con người. Vũ Như Tô là một tác phẩm như thế. Trong lý thuyết giá trị, người ta phân biệt cấp và lực của giá trị, giữa chúng có thể có độ vênh lớn(13). Những giá trị ở cấp thấp thường có lực lớn (thí dụ sự tồn tại vật chất hoặc những lợi ích vật chất). Càng lên cao, thì các giá trị càng dễ (không phải tất yếu!) yếu đi và rất nhiều khi trở nên khả nghi. Ðó cũng là nghịch lý bi kịch của xã hội loài người. Kịch Nguyễn Huy Tưởng nhắc nhở chúng ta về cái nghịch lý trường tồn ấy. Những giá trị cấp cao muốn tự bảo tồn và tỏa sáng không được quay lưng lại những giá trị cấp thấp, như họ Vũ trong kịch của Nguyễn Huy Tưởng làm, nhưng phải biết liên thông và liên kết với chúng, mà vẫn không đánh mất bản thân. Ðó là nhiệm vụ rất khó, nhưng tương lai của nền văn minh con người phụ thuộc vào việc giải quyết nhiệm vụ này.
Và, cuối cùng, xin trở lại với mối băn khoăn được nêu trong lời Ðề tựa kịch. “Chẳng biết Vũ Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải? Ðài Cửu Trùng không thành, nên mừng hay nên tiếc? Tháp người Hời nguyên là giống Angkor!” Văn minh Chiêm Thành và văn minh Angkor thuộc số những nền văn minh đã tử vong. Số phận, bí quyết trường tồn hay tử vong của các nền văn minh và các dân tộc là một chủ đề tư tưởng sâu kín của vở kịch của Nguyễn Huy Tưởng và những suy ngẫm kiên trì, lắng đọng từ thuở thiếu thời cho đến tận lúc qua đời, của ông về số phận của dân tộc chúng ta, so với số phận các dân tộc khác, cho thấy ông thực sự là một Con Người Việt Nam viết hoa. Ông vừa mừng vui cho sự trường tồn của dân tộc, vừa lo lắng cho tiền đồ của nó, tiền đồ ấy, ông nghĩ rất đúng, phụ thuộc vào việc dân tộc có hiện thực hóa được những tiềm năng sáng tạo của mình hay không. Ðây là động cơ mãnh liệt khiến Nguyễn Huy Tưởng viết đi viết lại kịch Vũ Như Tô. Nguyễn Huy Tưởng ghi lại, nhưng không chia sẻ tư tưởng của Trương Tửu về cái Ðạo Việt Nam, mà cốt lõi là “sống trước đã, sáng tạo sau”(14). Bởi lẽ sáng tạo thuộc về nhiệm vụ, thiên chức của từng con người và từng dân tộc. Có thể thực hiện nó dưới nhiều hình thức, không nhất thiết phải bằng những công trình nghệ thuật kỳ vĩ khiến thế giới kinh ngạc. Nhưng nhiệm vụ ấy phải được thực hiện, và không thể coi nó là nhiệm vụ cấp thứ hai, như Trương Tửu làm. Nhìn vào lịch sử, ta thấy có những dân tộc hay những nền văn minh đã suy vong do, trong một giai đoạn nào đó, đã huy động đến vắt kiệt những tiềm lực sáng tạo của mình (văn minh Angkor là thí dụ điển hình). Nhưng, ngay trước mắt chúng ta, một số dân tộc (ở Bắc và Trung Phi) có lịch sử khá lâu đời; họ đương thực hiện – khó nói một cách khác – sự tiêu diệt lẫn nhau và sự tự diệt. Phải chăng bởi vì họ đã không tìm ra con đường giải phóng những tiềm lực sáng tạo của mình, và những tiềm lực ấy chuyển hóa thành những lực hủy hoại? Bi kịch Vũ Như Tô thôi thúc chúng ta suy nghĩ và suy nghĩ…
Một tác phẩm như Vũ Như Tô chỉ có thể ra đời trong thời đại ngày nay, nó là một trong những trái chín sớm của tiến trình văn hóa Việt Nam hội nhập văn hóa thế giới. Chúng tôi đã cố gắng khảo cứu kịch và tiểu thuyết Âu – Mỹ thế kỷ XIX – XX, nhưng chưa tìm ra được tác phẩm nào viết trước những năm 1940 có chủ đề tương tự và đạt sức khái quát lịch sử như trước tác của Nguyễn Huy Tưởng. Nhưng cũng trong những năm mà nhà văn của chúng ta viết đi viết lại vở kịch tâm đắc của mình, bên kia bờ Thái Bình Dương, nhà văn Ðức lưu vong Thomas Mann sáng tác tiểu thuyết – bi kịch Bác sĩ Faustus(15). Nhân vật chính trong tiểu thuyết ấy, nhạc sĩ thiên tài Adrian Leverkuhn, sống trong thời đại, khi mà nghệ thuật đã ngạo nghễ tự khép mình trong tháp ngà của mình, không muốn biết đến những lĩnh vực khác của cuộc sống, khi mà sự cách tân trong nghệ thuật trở thành mục đích tự thân và mệnh lệnh câu thúc mọi văn nghệ sĩ, Adrian Leverkuhn càng quên mình sáng tạo càng cảm thấy cạn kiệt bên trong cảm hứng sáng tạo. Và, bị quỷ dữ cám dỗ, chàng đã bán linh hồn mình cho quỷ dữ để đổi lấy hai mươi bốn năm sáng tạo đầy hứng khởi, nhưng dưới ngòi bút của chàng chỉ hiện ra những bản nhạc của sự nhạo báng tất cả, sự hủy hoại cuồng say và sự tuyệt vọng giá lạnh… Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng và Bác sĩ Faustus của Thomas Mann như gọi nhau từ hai bờ đại dương. Một tác phẩm vừa đòi cho cái Ðẹp nghệ thuật quyền trở thành giá trị tự thân, vừa cảnh báo về mối họa nằm sẵn trong tham vọng của nó muốn đứng lên trên mọi giá trị khác của sinh tồn. Tác phẩm khác phơi bày những hệ quả bi thảm, khi tham vọng đấy được thỏa mãn.
Phân tích tác phẩm Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (Nguyễn Huy Tưởng) – Bài số 4
Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960) xuất thân trong một gia đình Nho giáo ở làng Dục Tú, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay là xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội). Năm 1943, ông tham gia Hội Văn hoá cứu quốc do Đảng lãnh đạo và là đại biểu tham dự Quốc dân Đại hội ở Tận Trào tháng Tám năm 1945. Trong sáng tác, Nguyễn Huy Tưởng có thiên hướng khai thác đề tài lịch sử và có đóng góp nổi bật ở các thể loại tiểu thuyết và kịch. Văn phong của ông giản dị, trong sáng và thâm trầm, sâu sắc. Năm 1996, ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Tác phẩm chính: các vở kịch Vũ Như Tô (1941), Bắc Sơn (1946), Những người ở lại (1948), kịch bản phim Lũy hoa (1960); các tiểu thuyết Đêm hội Long Trì (1942), An Tư (1945), Sống mãi với Thủ đổ (1961); kí: Kí sự Cao – Lạng (1951),… Vũ Như Tô là vở kịch đặc sắc của Nguyễn Huy Tưởng.
Qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả đặt ra những vấn đề sâu sắc, có ý nghĩa muôn thuở về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc sống, giữa lí tưởng nghệ thuật cao siêu, thuần túy của muôn đời với lợi ích thiết thân và trực tiếp của nhân dân.
Vũ Như Tô – một kiến trúc sư thiên tài bị vua Lê Tương Dực bắt xây dựng Cửu Trùng Đài để làm nơi hưởng lạc, vui chơi với các cung nữ. vốn là một nghệ sĩ chân chính gắn bó với nhân dân, cho nên mặc dù bị Lê Tương Dực dọa giết, Vũ Như Tô vẫn ngang nhiên chửi mắng tên hôn quân ấy và kiên quyết từ chối xây Cửu Trùng Đài (hồi I).
Đan Thiềm, một cung nữ đã thuyết phục Vũ Như Tô chấp nhận yêu Cầu của Lê Tương Dực, lợi dụng quyền thế và tiền bạc của hắn, trổ hết tài năng để xây dựng cho đất nước một tòa lâu đài vĩ đại bền như trăng sao, có thể tranh tinh xảo với hóa công để cho dân ta nghìn thu còn hãnh diện.
Theo lời khuyên, Vũ Như Tô đã thay đổi thái độ, chấp nhận xây cửu Trùng Đài. Từ đó, ông dồn hết tâm trí và bằng mọi giá xây dựng tòa đài sao cho thật hùng vĩ, tráng lệ. Tuy nhiên, ông đã vô tình gây biết bao tai hoa cho nhân dân. Để xây dựng Cửu Trùng Đài, triều đình ra lệnh tăng thêm sưu thuế, bắt thêm thợ giỏi, tróc nã, hành hạ những người chống đối. Dân căm phẫn vua vì vua làm cho dân cùng, nước kiệt; thợ oán Vũ Như Tô bởi nhiều người đã chết vì tai nạn, vì ông cho chém đầu những kẻ chạy trốn. Công cuộc xây dựng càng gần thành công thì mâu thuẫn giữa tập đoàn thống trị xa hoa trụy lạc với dân chúng nghèo khổ, giữa Vũ Như Tô với những người thợ lành nghề và người lao động mà ông hằng yêu mến càng căng thẳng, gay gắt (hồi II, III, IV).
Lợi dụng tình hình rối ren và mâu thuẫn ấy, Quận công Trịnh Duy Sản – kẻ cầm đầu phe đối lập trong triều đình đã dấy binh nổi loạn, lôi kéo thợ làm phản, giết vua Lê Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan Thiềm. Cửu Trùng Đài bị chính những người thợ đập phá và thiêu hủy (hồi V).
Đoạn Vĩnh biệt Cữu Trùng Đài là hồi V của vở kịch, thể hiện hiểu biết sâu sắc về nghệ thuật kịch của Nguyễn Huy Tưởng: ngôn ngữ kịch điêu luyện, có tính tổng hợp cao; dùng ngôn ngữ, hành động của nhân vật để khắc họa tính cách, miêu tả tâm trạng, dẫn dắt và đẩy xung đột kịch đến cao trào.
Trong cung cấm, Đan Thiềm đột ngột hớt hơ hớt hải chạy vào, mặt cắt không còn hột máu, giục giã Vũ Như Tô hãy trốn mau bởi loạn đến nơi rồi. Dân gian đói kém nổi lên, quận công Trịnh Duy Sản mượn tiếng đi dẹp giặc rồi quay binh về làm loạn. Nhưng Vũ Như Tô kiên quyết không chịu rời CửuTrùng Đài một bước. Vừa lúc đó, Nguyễn Vũ lật đật chạy vào hỏi tình hình lo lắng cho tính mạng của nhà vua. Lê Trung Mại xuất hiện thông báo Duy Sản đã đốt lửa hiệu giả báo có giặc, nhà vua lẻn ra cửa Bảo Khánh chạy giặc thì bị Ngô Hạch võ sĩ của Duy Sản đâm chết. Khâm Đức hoàng hậu hay tin cũng nhảy vào lửa tự thiêu. Nguyễn Vũ khóc lóc và rút dao tự tử. Một bọn nội gián khác thông báo thêm sau khi giết vua Lê Tương Dực, triều đình đã lập vua khác lên ngôi. Võ Tả Hầu là Phùng Mai đứng lên mắng quân phản nghịch đã bị chém đầu ngay lập tức. An Hòa Hầu ở bến Bồ Đề kéo quân về đốt phá kinh thành. Thợ xậy Cửu Trùng Đài quá nửa theo về quân phản nghịch. Đan Thiềm tiếp tục giục Vũ Như Tô đi trốn nhưng ông vẫn kiên quyết ở lại. Quân khởi loạn kéo vào. Đan Thiềm không thể xin tha được cho Vũ Như Tô, nàng bị chúng kéo đi nên chi còn biết Xin cùng ông vĩnh biệt Cửu Trùng Đài. Vũ Như Tô khăng khăng cho là mình không có tội, xin vào thưa với chủ tướng ý nguyện tốt đẹp khi xây Cửu Trùng Đài nhưng quân lính không nghe và cho biết chính An Hòa Hầu đã ra lệnh đốt sạch Cửu Trùng Đài. Vũ Như Tô đau đớn, vỡ mộng, chua chát chấp nhận cái chết bi thảm.
Vũ Như Tô và Đan Thiềm coi Cửu Trùng Đài là cả phần xác lẫn phần hồn của cuộc đời mình. Vì nó mà Vũ Như Tô chấp nhận làm việc cho hôn quân bạo chúa. Vì nó mà dù bị thương trên công trường, ông vẫn tiếp tục chỉ đạo công việc. Cũng vì nó, để giữ gìn kỉ luật, ông buộc phải trị tội những người thợ bỏ trốn. Cũng lại vì nó mà ông quyết ở lại trong cung cấm, giữa cơn biến loạn để bảo vệ không phải mạng sống của mình mà là bảo vệ Cửu Trùng Đài – sinh mạng nghệ thuật của cả đời ông.
Tính cách nổi bật nhất ở Vũ Như Tô là tính cách của người nghệ sĩ tài hoa hiện thân cho niềm khao khát và đam mê sáng tạo Cái Đẹp. Nhưng trong mội hoàn cảnh lịch sử cụ thể, thì Cái Đẹp ấy thành ra phù phiếm. Nó sang trọng, siêu đẳng, thậm chí cao cả và đẫm máu như một bông hoa ác. Vì thế, đi đến tận cùng niềm đam mê, khao khát ấy, Vũ Như Tô tất phải đối mặt với bi kịch đau đớn của đời mình: ông trở thành kẻ thù của dân chúng, thợ thuyền mà không hay biết.
Tài ba của Vũ Như Tô được nói đến chủ yếu ở các hồi kịch trước, thông qua hành động của ông và nhất là qua lời của các nhân vật khác nói về ông. Tài nghệ của ông đạt đến mức siêu phàm, được Đan Thiềm ca ngợi là một thiên tài ngàn năm chưa dễ có một, có thể sai khiến gạch đá như viên tưởng cầm quân. Trong hồi thứ V, những lo lắng, toan tính và thái độ của Đan Thiềm khi nói về Vũ Như Tô đủ cho thấy cái tài ấy quả là hiếm hoi: tài kia không nên để uổng..; Ông mà có mệnh hệ nào thì nước ta không còn ai điểm tô nữa… Đừng để phi tài trời. Hồi V không nói nhiều đến tài năng của nhân vật (chỉ có Đan Thiềm nhắc đến) mà đặt Vũ Như Tô vào việc tìm kiếm một câu trả lời: Việc mình nhận xây Cửu Trùng Đài là đúng hay sai? Có công hay có tội? Nhưng Vũ Như Tô không trả tời được thỏa đáng câu hỏi đó bởi ông chỉ đứng trên lập trường của người nghệ sĩ mà không đứng trên lập trường của nhân dân, đứng trên lập trường Cái Đẹp mà không đứng trên lập trường Cái Thiện. Hành động của ông không hướng đến sự hòa giải mà thách thức và chấp nhận sự hủy diệt. Vũ Như Tô đã từng tranh tinh xảo vôi hóa công, giờ lại bướng bỉnh tranh phải – trái với số phận và với cuộc đời. Hành động kịch hướng vào cuộc đua tranh này và thể hiện tập trung qua diễn biến tâm trạng của Vũ Như Tô.
Vũ Nhự Tô vì chìm đắm trong khao khát, đam mê Cái Đẹp mà trở nên mơ mộng và ảo tưởng. Giấc mộng ấy bắt đầu từ khi ông quyết định nhận lời xây Cửu Trùng Đài cho Lê Tương Dực, mượn tay bạo chúa để xây một công trình tô điểm cho đời. Càng sáng suốt trong sáng tạo thiết kế, thi công Cửu Trùng Đài bao nhiêu, Vũ Như Tô càng xa rời thực tế bấy nhiêu.
Ngay cả khi sự thật phũ phàng của Cơn biến loạn dội đến, Đan Thiềm cố gắng kéo ông ra khỏi giấc mộng bằng thông tin kinh hoàng là loạn đến nơi rồi và bằng phản ứng dữ dội của dân chúng đối với ông: Ai ai cũng cho ông là thủ phạm. Vua xa xỉ là vì ông, công khố hao hụt là vì ông, dân gian lầm than là vì ông, man di oán giận là vì ông, thần nhân trách móc là vì ông:., mà Vũ Như Tô vẫn không tỉnh, vẫn cho là họ hiểu nhầm.
Tận mắt chứng kiến Nguyễn Vũ tự sát, nghe tên nội giám thông báo kẻ phá, người đốt cửu Trùng Đài, Vũ Như Tô vẫn cho là điều vô Ií. Nghe tiếng quân lính reo hò truy tìm mình để phanh thây, Vũ Như Tô vẫn cố đấu lí với số phận và cuộc đời: Có lí gì để họ giết tôi ? Đứng trước quân khởi loạn gươm giáo sáng lòe, Vũ Như Tô tự trấn an: Đời ta chưa tận, mệnh ta chưa cùng. Ta sẽ xây một tòa đài vĩ đại để tạ lòng tri kỉ. Bị ra lệnh dẫn về trình chủ tướng, Vũ Như Tô vẫn hi vọng sẽ có thể phân trần giảng giải cho người đời biết rõ nguyện vọng của ta. Ông dường như không hề nghe thấy tiếng cười ầm ĩ và lời quát tháo của quân lính. Mày không biết mấy nghìn người chết vì Cửu Trùng Đài, mẹ mất con, vợ mất chồng vì mày đó ư? Người ta oán mày còn hơn oán quỷ. Ông vẫn say sưa trong giấc mộng Cửu Trùng Đài: Vài năm nữa, đài Cửu Trùng hoàn thành, cao cả, huy hoàng, giữa cõi trần lao lực, có một cảnh Bồng Lai…
Chỉ đến khi kinh thành phát hỏa, quân lính cho hay đó là lệnh của An Hòa Hầu và tận mắt chứng kiến ánh lửa sáng rực, cả tàn than, bụi khói bay vào, Vũ Như Tô mới rú lên kinh hoàng, tuyệt vọng : Đốt thực rồi! Đốt thực rồi Ị ôi đảng ác ! Ôi muôn phần căm giận! Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì ? ôi mộng lớn ! Ôi Đan Thiềm ! Ôi Cửu Trùng Đài! Rơi xuống từ một cửu Trùng Đài vời vợi độ cao của mơ màng và ảo vọng, nỗi đau vỡ mộng trong Vũ Như Tô hoá thành tiếng kêu bi thiết, não nùng, khắc khoải. Cửu Trùng Đài đã biến thành một đài lửa rừng rực trong kinh thành Thăng Long đầy biến động, Vũ Như Tô đã chết trước khi ra pháp trường. Mộng lớn, Đan Thiềm, Cửu Trùng Đài Tất cả nối tiếp nhau dội xuống những âm thanh của đau thương tang tóc. Nỗi đau mất mát đã hòa vào làm một, trở nên tột cùng. Âm thanh ấy trở thành âm thánh chủ đạo dội ngược lên toàn bộ các hồi trước của vở kịch.
Khắc khoải trong lòng người đọc vẫn là những dấu chấm hỏi, những câu cảm thán thốt ra từ đỉnh điểm của cảm xúc, từ cao trào của xung đột trong Vũ Như Tô: Ta tội gì? Ta không có tội! ôi mộng lớn! ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài! Cảm giác ngột ngạt, bức bối tưởng như còn nguyên vẹn khi Nguyễn Huy Tưởng viết lời đề tựa: ôi khô khan! ôi gay gắt! Bi kịch Vũ Như Tô đã thức tỉnh ý thức của chúng ta về vấn đề muôn thuở: mối quan hệ hữu cơ giữa nghệ thuật và cuộc sống.
Ngược lại với nhận thức của Vũ Như Tô, trong mắt dân chúng, Cửu Trùng Đài là hiện thân của thói ăn chơi xa xỉ, hiện thân của tội ác. Cửu Trùng Đài và cha đẻ của nó – Vũ Như Tô – chính là kẻ thù của họ. Vũ Như Tô, Cửu Trùng Đài, lũ cung nữ… bị quân phản nghịch xếp chung vào một hạng cần phải trị tội. Bởi vậy Cửu Trùng Đài bị thiêu cháy, Vũ Như Tô bị giải ra pháp trường và dân chúng reo hò, ăn mừng như ăn mừng chiến thẳng lớn.
Điểu gì đã tạo nên sự khác biệt đến đối lập khi nhìn nhận và đánh giá về công trình cửu Trùng Đài mà kiến trúc sư Vũ Như Tô từng kì vọng: móng phải đào sâu xuống dưới âm ti, nóc phải vờn mây?Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài với ao ước điểm tô cho đất nước, để lại cho dân tộc một công trình là hiện thân của cái đẹp cao cả, huy hoàng, đem hết tài ra xây cho nòi giống một tòa đài hoa lệ, thách thức cả những công trình sau trước, tranh tinh xảo với Hóa công. Ao ước, khao khát ấy là cao cả, là chân chính, bởi xuất phát điểm của nó là từ một cái Tâm tha thiết với dân tộc. Cho nên ngay từ đầu, nhiều người đã hiểu và ủng hộ Vũ Như Tô. Nhưng đài càng xây cao, mạng người càng rẻ mạt, dân chúng càng điêu đứng, bọn hôn quân bạo chúa càng ra tay vơ vét. Cửu Trùng Đài đã trở thành đại hoạ, gây ra bao khốn khổ điêu linh, thành một đóa hoa ác, thành hiện thân cho thói xa hoa hưởng lạc trên xương máu của nhân dân. Và tất nhiên, trong mắt nhân dân, Vũ Như Tô trở thành kẻ thù phải đền tội.
Trái lại, Vũ Nhự Tô vẫn không thể thoát ra khỏi trạng thái mơ màng, ảo vọng. Ông không tin rằng công việc cao cả mình đang làm lại có thể bị xem là tội ác, cũng không thể tin sự quang minh chính đại của mình lại bị người đời rẻ rúng, nghi ngờ đến thế. Sự vỡ mộng của Vũ Như Tô vì vậy mà đau đớn, kinh hoàng gấp bội so vớt Đan Thiềm. Những tiếng kêu thống thiết cuối cùng của Vũ Như Tô khi ngọn lửa oan nghiệt đang bùng bùng thiêu trụi Cửu Trùng Đài, trước khi tác giả của nó bị dẫn ra pháp trường dường như còn vang vọng đến bây giờ. Trong tiếng kêu ấy, m