16/01/2018, 13:28

Phân tích tác phẩm Lời tiễn dặn (Trích tiễn dặn người yêu) – Văn mẫu lớp 10

Phân tích tác phẩm Lời tiễn dặn (Trích tiễn dặn người yêu) – Văn mẫu lớp 10 Phân tích tác phẩm Lời tiễn dặn (Trích tiễn dặn người yêu) – Bài số 1 1. Đặc điểm về nội dung Tiễn dặn người yêu (Xống chụ xon xao) kể về câu chuyện ...

Phân tích tác phẩm Lời tiễn dặn (Trích tiễn dặn người yêu) – Văn mẫu lớp 10

Phân tích tác phẩm Lời tiễn dặn (Trích tiễn dặn người yêu) – Bài số 1

1. Đặc điểm về nội dung

Tiễn dặn người yêu (Xống chụ xon xao) kể về câu chuyện tình cảm động của đôi trai gái Thái cùng vói đau khổ cũng như khát vọng yêu đương của họ.

Tiễn dặn người yêu là một trong những truyện thơ tiêu biểu và đặc sắc trong kho tàng văn học dân gian các dân tộc thiểu số, được bổ sung qua nhiều thế hệ người Thái. Người Thái coi đây là cuốn sách quý nhất trong mọi cuốn sách quý vì nó thể hiện rõ nét cuộc sống và tâm hồn Thái.

Truyện thơ Tiễn dặn người yêu gồm 1846 câu thơ, trong đó chỉ có gần 400 câu tiễn dặn. Đoạn trích được lựa chọn để đọc thêm rất tiêu biểu cho nội dung

Cách miêu tả trong đoạn trích cho thấy rõ người con gái đã cố trì hoãn thời gian trên đường cất bước về nhà chồng. Mỗi cánh rùng nàng đi qua đều là một không gian biểu cảm tạo ra cái cớ để mong có cơ hội gặp người yêu :

     Em tới rừng ớt ngắt lá ớt ngồi chờ,

     Tới rừng cà ngắt lá cà ngồi đợi,

     Tới rừng lá ngón ngóng trông.

Từ đầu đoạn trích, liên tiếp các từ ngoảnh lại, ngoái trông, đau nhớ, ngồi chờ, ngồi đợi,… được sử dụng dồn dập, liên tiếp đã thể hiện rõ nỗi lòng đau khổ, nhớ thương, quyến luyến của cô gái. Điều đặc biệt là hình ảnh cô gái lại hiện lên qua cái nhìn, tâm trạng của chàng trai giống như qua một thước phim quay chậm đến từng chi tiết. Điều này chứng tỏ chàng trai đã âm thầm quan sát cô gái với tất cả sự trìu mến, xót thương. Họ đã hiểu nhau đến từng hành động và ý nghĩ.

Không gian núi rừng bình dị, quen thuộc của đồng bào Thái được miêu tả trực tiếp như một tấm phông rộng lớn cùng chia sẻ, đồng cảm với lòng người.

Chàng trai đã tới vì dường như họ đã ước hẹn với nhau và như lời chàng giãi bày :

     Anh tới nơi, em bẻ lá xanh em ngồi ;

     Được nhủ đôi câu, anh mới đành lòng quay lại,

     Được dặn đôi lời, anh yêu em mới chịu quay đi.

– Lời tiễn dặn của chàng trai thể hiện một tình yêu lãng mạn, thấm đượm vẻ đẹp huyền bí và hấp dẫn của phong tục, tín ngưỡng và hơn hết thảy là tâm hồn người đàn ông Thái đem đến cho khổ thơ một ấn tượng đặc biệt khó quên. Người Thái có tục hoả táng, muốn cho thân xác cháy đượm, linh hồn được siêu thoát, cần có hơi hương của người thân yêu nhất. Bởi thế, mặc dù nhận thức được hoàn cảnh, chàng vẫn gắn bó thuỷ chung. Chàng muốn gần “kề vóc mảnh”, được có hơi hương người yêu trong phút chia tay bịn rịn này để nếu có chết hồn cũng không bị cô đơn :

     Xin hãy cho anh kề vóc mảnh,

     Quấn quanh vai ủ lấy hương người,

     Cho mai sau lửa xác đượm hơi, 

     Một lát bên em thay lời tiễn dặn!

Mở đầu đoạn trích, chàng trai đã âu yếm gọi cô gái là “người đẹp anh yêu”, “anh yêu em”. Cách xưng hô, cách gọi đậm chất trữ tình, đặc trưng cho lời ăn tiếng nói của đồng bào Thái và mang sắc thái trữ tình sâu sắc. Vẻ đẹp của người con gái Thái được miêu tả bàng một nét phác hoạ chính xác hết sức tài tình: "Xin hãy cho anh kề vóc mảnh" bởi ai đã từng tiếp xúc với người phụ nữ Thái hẳn sẽ ấn tượng với dáng vóc mảnh mai có phần kiêu sa của họ. Truyện thơ khác với các thể loại tự sự văn xuôi ở ưu thế tả người, tả cảnh, tả tình, ơ phần khác của truyện thơ này có một số dòng miêu tả vẻ đẹp của người con gái: "Ngón tay thon lá hành – Đuôi mắt dài như mắt lá trầu xanh".

Chính đoạn thơ này đã trở thành điểm nhấn và là cảm hứng tạo nên đầu đề của truyện thơ Tiễn dặn người yêu. Vì chỉ ở thời điểm này, tình yêu mới bộc lộ được hết sắc độ của nó, với yêu thương, đớn đau, tuyệt vọng và quyết tâm không gì lay chuyển.

– Mặc dù cô gái đã có con với người chồng mà cô không yêu nhưng điều đó khống làm giảm tình yêu, sự trân trọng của chàng trai dành cho cô. Anh vẫn nựng con của người yêu âu yếm như nựng con của chính mình:

     Con nhỏ hãy đưa anh ẵm,

     Bé xinh hãy đưa anh bồng,

     Cho anh bế con dòng, đừng ngượng,

     Nựng con rồng, con phượng, đừng buồn.

Có thể thấy sự nhân ái, lòng vị tha nồng ấm tình yêu trong trái tim người đàn ông Thái cao thượng. Tình yêu của chàng trai có độ bền vững qua thời gian, ngay cả khi cô đã tay bồng, tay mang.

Kết thúc phần 1 vang lên điệp khúc tình yêu vói lời thề nguyền, ước hẹn:

     Đôi ta yêu nhau, đợi tới tháng Năm lau nở,

     Đợi mùa nước đỏ cá về,

     Đợi chim tăng ló gọi hè.

     Không lấy được nhau mùa hạ, ta sẽ lấy nhau mùa đông,

     Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi goá bụa về già.

Thời gian mùa hạ, mùa đông trong câu thơ trên mang ý nghĩa biểu tượng, tương đồng với tuổi thanh xuân sôi nổi, tươi đẹp thời trẻ và tuổi già tàn phai,

héo úa (goá bụa về già). Lời thề nguyền của chàng trai thật chân thành, cụ thể. Trong nhiều đoạn khác của truyện thơ luôn vang lên điệp khúc thề nguyền cảm động như thế và hơn thế.

b) Cử chỉ, hành động và tâm trạng của chàng trai lúc ở nhà chồng của cô gái

Chàng trai an ủi, động viên khi cô gái bị nhà chồng hành hạ, và một lần nữa khẳng định sự chung thuỷ son sắt trong tình yêu. Để giữ lời thề nguyền, quyết bảo vệ tình yêu và ước vọng được đoàn tụ cùng người yêu, nàng tuy về nhà chồng nhưng cố tình phản kháng lại sự xếp đặt của số mệnh, giả bộ ương bướng, ngớ ngẩn, vụng về để cho nhà chồng chán mình mà đuổi về bàng những việc làm : "Rửa bát xóc cả rổ – Rửa ốc rửa từng con". Người phụ nữ về nhà chồng phải ăn cơm thừa canh cặn, phải làm việc cực nhọc lại bị hành hạ, ngược đãi đủ đường. Trước phần 2 của đoạn trích là cảnh cô gái bị nhà chồng đánh ngã lăn quay bên cối gạo. Đoạn đầu của phần 2 miêu tả những hành động, cử chỉ ân cần, chăm sóc, lo lắng thuốc thang của chàng trai dành cho cô gái. Lời nói của chàng thật dịu dàng, chan chứa xót thương:

     Dậy đi em, dậy đi em ơi!

     Dậy rũ áo kẻo bọ,

     Dậy phủi áo kẻo lấm!

     Đầu bù anh chải cho,

     Tóc rối đưa anh búi hộ!

     Anh chặt tre về đốt gióng đầu,

     Chặt tre dày, anh hun gióng giữa,

     Lam ống thuốc này em uống khỏi đau.

Tình yêu của chàng trai thật chân thành, dịu dàng, đằm thắm, không chỉ thể hiện ở những lời thề nguyền mà biểu hiện cụ thể qua hành động và lời nói ân cần, tha thiết khiến người nghe xiết bao cảm động.

Những hình ảnh như: “Tơ rối đôi ta cùng gỡ – Tơ vò ta vuốt lại quay guồng” mang ẩn ý dẫu hoàn cảnh khó khăn thế nào nếu đồng lòng củng có thể giải quyết ổn thoả:

     Quay lại guồng gỗ tốt cán thuôn,

     Về với người ta thương thuở cũ.

Trong thơ ca dân gian của người Thái, người Mông hay nhắc đến cái chết. Đó là một thủ pháp nghệ thuật để biểu hiện ý chí quyết bảo vệ tình yêu đến cùng. Cái chết là giới hạn cuối cùng của thử thách, nhưng "cái chết" cũng chỉ là cách biểu hiện quyết tâm (thực chất người trong cuộc không nghĩ đến cái chết và quả thực trong truyện này hai người đã quyết sống một cách mạnh mẽ và họ đã tìm lại được tình yêu):

     Chết ba năm hình còn treo đó;

     Chết thành sông, vục nước uống mát lòng,

     Chết thành đất, mọc dây trầu xanh thắm,

     Chết thành bèo, ta trôi nổi ao chung,

     Chết thành muôi, ta múc xuống cùng bát,

     Chết thành hồn, chung một mái, song song.

Phương pháp so sánh được sử dụng đậm nét trong phần kết của đoạn trích. Hình ảnh so sánh được chọn lọc đa dạng, biểu hiện phong tục, bản sắc văn hoá tinh thần, cảnh sắc thiên nhiên dân tộc Thái:

     Đôi ta yêu nhau, tình Lú – Ủa mặn nồng,

     Lời đã trao thương không lạc mất;

     Như bán trâu ngoài chợ,

     Như thu lúa muôn bông.

     Lòng ta thương nhau trăm lớp nghìn trùng,

     Bền chắc như vàng, như đá.

Toàn bộ đoạn trích là lời tiễn dặn người yêu, hành động chăm sóc ân cần, xót xa thương cảm và âm vang điệp khúc nguyện thề giữ trọn tình yêu.

Kết thúc truyện thơ Tiễn dặn người yêu là một kết thúc có hậu theo truyền thống của vân học dân gian : ước mơ thành sự thật. Hai người đoàn tụ, làm lại cuộc đời trong tĩnh yêu bất diệt. Chàng trai đã giũ đúng lời nguyện ước của mình "Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi goá bụa về già". Con người đã vượt lên trên số phận khắc nghiệt bởi những hành động tích cực đáng trân trọng, bởi lòng chung thuỷ, sự cao thượng và sức mạnh tình yêu chân chính.

2. Đặc điểm về nghệ thuật

– Sự kết họp hài hoà giữa yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình. Hình ảnh cô gái được hiện lên rõ nét qua quan sát và tâm trạng của chàng trai trên đường tiễn dặn (ở phần w và thái độ chăm sóc ân cần của chàng trai với cô gái ở nhà chồng (ở phần 2) được khắc hoạ rõ nét. Sự đan xen giữa kể sự kiện và miêu tả cảnh vật, tâm trạng nhân vật là ưu thế nổi bật của truyện thơ.

– Các cấu trúc câu lặp lại, lối sử dụng điệp từ, lấy thiên nhiên làm đối tượng biểu đạt là đặc điểm nghệ thuật nổi bật trong đoạn trích. Truyện thơ của dân tộc Thái sử dụng phương pháp trùng điệp như một phương pháp phổ biến, đặc. thù. Một hành động, một tâm trạng ít khi chỉ được diễn tả bằng một hình ảnh mà luôn có sự lặp lại của nhiều hình ảnh theo một cấu trúc ngữ pháp nhằm khắc hoạ sâu sắc nội dung diễn tả. Điều đó tạo tính chất phô diễn, giãi bày đậm chất trữ tình đồng thời tạo sự cân đối, nhịp nhàng, hài hoà về nhạc điệu.

     Vừa đi vừa ngoảnh lại,

     Vừa đi vừa ngoái trông,

     Chân bước xa lòng càng đau nhớ.

     Em tới rừng ớt ngắt lá ớt ngồi chờ,

     Tới rừng cà ngắt lá cà ngồi đợi,

     Tới rừng lá ngón ngóng trông.

– Lấy thiên nhiên để so sánh, để giãi bày tâm trạng, nên thiên nhiên thân thuộc của núi rừng Tây Bắc tràn vào lời ca : Rừng cà, rừng ớt, tháng Năm lau nở, nước đỏ cá về, như bán trâu ngoài chợ, như thu lúa muôn bông,…

– Đại từ nhân xưng "người đẹp anh yêu", "anh yêu em", "đôi ta yêu nhau"; các hô ngữ, mệnh lệnh thức "xin hãy", "dậy đi em", "hỡi gốc dưa yêu",… tăng tính trữ tình.

Phân tích tác phẩm Lời tiễn dặn (Trích tiễn dặn người yêu) – Bài số 2

Truyện bắt đầu từ khi chàng trai và cô gái còn nằm trong bụng mẹ. Họ cùng ra đời, cùng chơi chung từ thuở bé thơ. Đến khi lớn lên, 2 người càng trở nên thân thiết hơn. Nhưng cha mẹ cô gái chê anh nghèo không đủ tiền thách cưới, họ đã gả bán con gái mình cho một anh chàng giàu có hơn khi đang còn ở trên nương. Mối tình của chàng trai và cô gái vô cùng thắm thiết nhưng họ không đến được với nhau. Điều này nằm ngoài ý muốn của 2 người. Lễ giáo phong kiến đã làm cho tình yêu của họ tan vỡ.Nàng phải về làm dâu nhà người khi chưa được gặp mặt người yêu để nói lời từ biệt. Cô vừa đi mà vừa day dứt bồn chồn

"Quảy gánh qua đồng rộng
Người đẹp anh yêu cất bước theo chồng
Vừa đi vừa ngoảnh lại
Vừa đi vừa ngoái trông
Chân bước xa lòng càng đau nhớ
Em tới rừng ớt ngắt lá ớt ngồi chờ
Tới rừng cà ngắt lá cà ngồi đợi
Tới rừng lá ngón ngóng trông
Anh tới nơi em bẻ lá xanh em ngồi
Được nhủ đôi câu anh mới đành lòng quay lại
Được dặn đôi lời anh yêu em mới chịu quay đi"

Về nhà chồng mà tâm trạng bế tắc khổ đau, vừa ngoảnh lại vừa ngoái trông, tới rừng ớt ngắt lá ớt ngồi chờ, tới rừng cà ngắt lá cà ngồi đợi, tới rừng lá ngón ngóng trông. Qua hình ảnh lá ớt, lá cà, lá ngón toàn là những lá độc, không mang lại may mắn, ta có thể thấy niềm hi vọng được gặp lại người yêu, chỉ mong sao đây là cơn ác mộng. Chàng trai cũng không ngờ duyên tình lại tan vỡ, anh sẽ không gặp được người yêu của mình. Chàng chạy đuổi theo cô gái, gặp được cô gái, được nhủ đôi câu, được dặn đôi lời anh mới đành lòng quay đi.

"Xin hãy cho anh kề vóc mảnh
Quấn quanh vai ủ lấy hương người
Cho mai sau lửa xác đượm hơi
Một lát bên em thay lời tiễn dặn!
Con nhỏ hãy đưa anh ẵm
Bé xinh hãy đưa anh bồng
Cho anh bế con dòng, đừng ngượng
Nựng con rồng, con phượng, đừng buồn"

Chàng muốn giữ lại hương thơm của cô gái bên mình, để đến lúc chết xác được nhờ hương nàng mà cháy đượm. Chàng yêu cô gái một cách chân thành, dù anh không được ở bên người mình yêu nhưng cũng mong làm cho cô hạnh phúc : nếu em có con hãy đưa anh ẵm, anh bồng, anh nựng, đừng ngượng, đừng buồn bởi con em cũng được anh thương.Chàng tiễn đưa cô gái về nhà chồng nhưng chàng không tiễn đưa mối tình của mình. Do đó tuy không lấy được nhau nhưng tình yêu không chết đi, anh vẫn không thôi ước vọng, tin vào ngày sum họp trong tương lai

"Đôi ta yêu nhau, đợi đến tháng 5 lau nở
Đợi mùa nước đỏ cá về
Đợi chim tăng ló hót gọi hè
Không lấy nhau mùa hạ, ta sẽ lấy nhau mùa đông
Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau lúc goá bụa về già"

Cô gái về nhà chồng nhưng không tìm thấy hạnh phúc mà còn bị gia đình đấnh đập. Chứng kiến những lời hắt hủi, những trận đòn đau mà người yêu phải chịu, chàng trai đau đớn. Anh chẳng biết làm gì hơn để người yêu mình bớt khổ

"Dậy đi em, đậy đi em ơi!
Dậy rũ áo kẻo bọ
Dậy phủi áo kẻo lấm
Đầu bù anh chải cho
Tóc rối đưa anh búi hộ
Anh chặt tre về đốt gióng đầu
Chặt tre dày anh hun gióng giữa
Lam ống thuốc này em uống khỏi đau"

Tập tục phong kiến đã cướp đi hạnh phuc lứa đôi. Giờ đây tơ rối ta cùng phải gỡ, tơ vò ta phải vuốt lại. Anh muốn cô gái trở về cùng mình, mặc người ta nói gì, ta hãy sống với nhau, miễn đôi ta hạnh phúc. Nhưng là phụ nữ, vốn nhẫn nhịn, cam chịu, cô đâu dám bỏ nhà chồng mà trốn đi với người mình yêu.Ước vọng không thành, chỉ có cái chết mới đưa họ lại với nhau.

"Chết 3 năm hình còn treo đó
Chết thành sông vục nước uống mát lòng
Chết thành đất mọc dây trầu xanh thắm
Chết thành bèo ta trôi nổi ao chung
Chết thành muôi ta múc xuống cùng bát
Chết thành hồn chung một mái song song
Hỡi gốc dưa yêu mọc ngoài cồn cát
Nước ngập gốc đáng lụi đừng lụi
Nước ngập rễ đáng bềnh đừng bềnh
Đôi ta yêu nhau tình Lú-Ủa mặn nồng
Lời đã trao thương không lạc mất
Như bán trâu ngoài chợ
Như thu lúa muôn bông
Lòng ta yêu nhau trăm lớp nghìn trùng
Bền chắc như vàng, như đá
Yêu nhau, yêu trọn đời gỗ cứng
Yêu nhau, yêu trọn kiếp đến già
Ta yêu nhau tàn đời gió, không rung không chuyển
Người xiểm xui, không ngoảnh không nghe"

Đến lúc ở bên nhau ta yêu nhau trọn đời trọn kiếp, dù trắc trở chông gai, tình ta mãi son sắt thuỷ chung như chàng Lú – nàng Ủa. Trâu bán xong không tìm lại được, lúa gặt về rồi không biết bông nào ruộng nào. Nhưng lời thương anh trao em không bao giờ lạc mất. Gió có tàn ta vẫn yêu nhau. 

Phân tích tác phẩm Lời tiễn dặn (Trích tiễn dặn người yêu) – Bài số 3

1.Đặc điểm nội dung

Tiễn dặn người yêu (xống chụ xon xao) kể về câu chuyện tình cảm động của đôi trai gái người Thái, cùng với khổ đau cũng như khát vọng yêu đương của họ. Tiễn dặn người yêu là một trong những truyện thơ tiêu biết và đặc sắc trong kho tàng văn học dân gian các dân tộc thiểu số, được bổ sung qua nhiều thế hệ người Thái. Người thái coi đây là cuốn sách quý nhất trong mọi cuốn sách quý vì nó thể hiện rõ nét nhất cuộc sống và tâm hồn người Thái.

Truyện thơ Tiễn dặn người yêu gốm 1846 câu thơ, trong đó chỉ có gần 400 câu thơ tiễn dặn. Đoạn trích được lựa chọn để đọc thêm rất tiêu biểu cho nội dung và nghệ thuật truyện thơ Tiễn dặn người yêu, được phép tự hai đoạn khác nhau của tác phẩm, cùng kể về chuyện và diễn tả tâm trạng xót xa của nhân vật chàng trai và cô gái Thái khi tình yêu lỡ dở.
Đoạn trích gồm hai lời tiễn dặn ứng với hai phần.

– Phần 1: (Gồm 24 câu từ dầu đến “Góa bụa về già”): Tâm trạng của chàng trai và của cô gái qua sự mô tả của chàng trai trên đường tiễn cô gái về nhà chồng.
– Phần 2: (Gồm 30 câu thơ còn lại): cử chỉ, hành động và tâm trạng của chàng trai lúc ở nhà chồng của cô gái.

a)Tâm trạng của chàng trai (Và của cô gái qua sự mô tả của chàng trai )trên đường tiễn cô gái về nhà chồng.

– Mở dầu đoạn trích là hình ảnh cô gái hiện lên rõ nét qua quan sát và tâm trạng của chàng trai. Người con gái cất bước về nhà chồng “quảy” cả gánh nặng theo nghĩa đen (Quảy gánh qua đồng rộng – người dẹp anh yêu cất bước theo chồng ) và phải chăng cả theo nghĩa bóng khi trong lòng trĩu nặng những vấn vương sầu thương, xót xa:

Vừa đi vừa ngoảnh lại
Vừa đi vừa ngoái trông
Chân bước xa lòng càng đau nhớ

Người con gái buộc phải lấy chồng người chồng mà mình không yêu, người cô tha thiết yêu thương thì bố mẹ không ưng. Cô gái đã nấn ná mãi để được đợi người yêu trở về. Ba năm chồng của cô đã tuân theo đúng phong tục của dân tộc thái là làm rể ngoài, rồi ba năm làm rể trong. Đên thời hạn cô gái phải về nhà chồng thì người yêu cô trở vè với tình yêu thương vẫn vẹn nguyên dành cho cô, mặc dù “khi anh đi, rau cải mới mọc mầm – Chiếc piêu đen còn phơi sào giữ – Lúc anh về, áo con nhỏ phơi đầy ngoài sân”. Làm sao cô gái không đau đớn, xót xa cho số phận của mình: “cahan bước xa lòng càng đau càng nhớ”, buộc phải theo chồng là hiện thực không thể phủ nhận. Điệp từ “vừa đi vừa ngoảnh lại – vừa di vừa ngoái trông” gợi lên tâm trạng đầy mâu thuẫn. Không thể không đi nhưng lòng không chút nào muốn rời xa cảnh cũ người xưa. Đọc đoạn thơ khiến ta liên tưởng tới câu thơ Nguyễn Du miêu tả tâm trạng Thúy kiều: “Bước đi một bước giây giây lại dừng”.

Cách miêu tả trong đoạn trích cho thấy rõ người con gái đã cố trì hoãn thời gian lên đường trên đường cất bước theo chồng. Mỗi cánh rừng nàng đi ua đều là một không gian biểu cảm tạo ra cái cớ để mong có cơ hội gặp người yêu:

Em tới rừng ớt là ớt ngồi chờ
Tới rừng cà ngắt lá cà ngồi đợi
Tới rừng lá ngón ngóng trông

Từ đầu đoạn trích, liên tiếp các từ ngoảnh lại, ngoái trông, đau nhớ, nghỉ chờ, ngồi đợi.. được sử dụng dồn dập, liên tiếp đã thể hiện rõ nỗi lòng đau đớn khổ, nhớ thướng, quyến luyến của cô gái. Điều đặc biệt là hình ảnh cô gái lại hiện lên qua cái nhìn, tâm trạng của chàng trai giống như qua một thước phim quay chậm lại đến từng chi tiết. Điều này chứng tỏ chàng tai đã âm thàm quan sát cô gái với tất cả sự trìu mến, xót thương. Họ đã hiểu nhau đến từng hành động và ý nghĩ.

Không gian núi rừng bình dị, quen thuộc của đồng bào Thái được miêu tả trực tiếp như một tấm phông rộng lớn cùng chia se, đồng cảm với lòng người.

Chàng trai đã tới vì dường như họ đã ước hẹn với nhau và như lời chàng giãi bày:

Anh tói nơi, em bẻ lá xanh em ngồi
Được nhủ đôi câu, anh mới đành lòng quay lại
Được dặn đôi lời, anh yêu em mới chịu quay đi

– Lời tiễn dặn của chàng trai thể hiện một tình yêu lãng mạn, thấm đượm vẻ đẹp huyền bí và hấp dẫn của phong tục, tín ngưỡng và hơn hết thảy là tâm hồn người đàn ông Thái đem đến cho khổ thơ một ấn tượng đặc biệt khó quên. Người Thái có tục hỏa táng, muốn cho thân xác cháy đượm, linh hộn được siêu thoát, cần có hơi hương của người thân yêu nhất. Bởi thế, mặc dù nhận thức được hoàn cảnh, chàng vẫn gắn bó thủy chung. Chàng muốn gần “kề vóc mảnh”, được có hơi hương của người yêu trong phút chia li bịn rịn này để nếu có chết hồn cũng không bị cô đơn.

Xin hãy cho anh kề vóc mảnh
Quấn quanh vai ủ lấy hương người
Cho mai sau lửa xác đượm hơi,
Một lát bên em thay lời tiễn dặn.

Mở đầu đoạn trích, chàng trai đã âu yếm gọi cô là :người đẹp anh yêu”.”anh yêu em” Cách xứng hô, cách gọi tên đậm chất trữ tình, đặc trưng cho lời ăn tiếng nói của đồng bào Thái và mang sắc thái trữ tình sâu sắc. Vẻ đẹp của người con gái Thái được miêu tả bằng một nét phác họa chính xác hết sức tài tình: “Xin hãy cho anh kề vocs mảnh” bởi ai đã từng tiếp xúc với người phụ nữ Thái hẳn sẽ ấn tượng với vóc dáng mảnh mai có phần kiêu sa xủa họ. Truyện thơ khác với các thể loại tự tự văn xuôi ở ưu thế tả người, tả cảnh, tả tình. Ở phần khác của truyện thơ này có một số dòng miêu tả vẻ đẹp của người con gái: “Ngón tay thon lá hành – Đuôi mắt dài như mắt lá trâu canh”.

Chính đoạn thơ này đã trở thành điểm nhấn và là cảm hứng tạo nên đầu đề của truyện thơ Tiễn dặn người yêu. Vì chỉ ở thời điểm này, tình yêu mới bộc lộ được hết sắc độ của nó, với yêu thương, đớn đau, tuyệt vọng, và quyết tâm không gì lay chuyển.

– Mặc dù cô gái đã có con với người chồng mà cô không yêu nhưng điều đó không làm giảm tình yêu, sự trân trọng của chàng trai dành cho cô. Anh vẫn nựng con của người yêu âu yếm như nựng con của chính mình:

Con nhỏ hãy đưa anh ẵm,
Bé xinh hay đưa anh bồng,
Cho anh bế con dòng, đừng ngượng
Nựng con rồng, con phượng đừng buồn.

Có thẻ thấy sự nhân ái, lòng vị tha nồng ấm tình yêu trong trái tim người đàn ông Thái cao thượng. Tình yêu của chàng trai có độ bền vững qua thời gian, ngay cả khi cô đã có tay bồng tay mang.
Kết thúc phần 1 vang lên điệp khúc tình yêu với lề thề nguyền hẹn ước:

Đôi ta yêu nhau, đợi tới tháng Năm lau nở,
Đợi mùa nước đỏ cá về,
Đợi chim tăng ló gọi hè,
Không lấy được nhau mùa hạ, ta sẽ lấy nhau mùa đông
Không lấy được nhau thời trẻ ta lấy nhau khi góa bụa về già.

Thời gian mùa hạ, mùa đông trong câu thơ mang ý nghĩa biểu tượng trưng tương đồng với tuổi thanh xuân sôi nổi, tươi đẹp thời trẻ và tuổi già tàn phai héo úa (góa bụa về già). Lời thé nguyền của chàng trai thật chân thành, cụ thể. Trong câu thơ nhiều đoạn trích khác của truyện thơ luôn vang lên  điệp khúc thề nguyền cảm động như thế và hơn thế.

Phân tích tác phẩm Lời tiễn dặn (Trích tiễn dặn người yêu) – Bài số 4

I. Mở bài.

– Tiễn dặn người yêu là một trong những truyện thơ hay nhất của kho tàng truyện thơ dân gian các dân tộc ít người ớ Việt Nam. Đây cùng là truyện thơ được dân tộc Thái hết sức yêu quý, say mê.

– Mang đậm yếu tố tự sự và trữ tình, thể hiện sinh động tình nghĩa thiết tha, thuỷ chung và khát vọng tự do của nam nữ thanh niên Thái qua hai nhân vật trung tâm là chàng trai và cù gái, là đoạn trích Lời tiễn dặn (Phần (1) và Phần (2).

II. Thân bài.

Đoạn trích gồm hai lời tiễn dặn. Phần (1) là lời dặn dò của chàng trai khi anh chạy theo tiễn cô về tận nhà chồng. Phần (2) là lời khuyên đó, dặn dò của chàng trai khi chứng kiến cảnh cô bị nhà chồng đánh đập, hành hạ. Thương cô, anh càng khẳng định tình yêu tha thiết, bền chặt của mình.

A. Nỗi khổ đau của cô gái.

Cô gái phải về nhà chồng nhưng chưa gặp người yêu để giã biệt. Hoàn cảnh ấy tạo ra tâm trạng bồn chồn, đau khổ, bất an. Hình ảnh cô cất bước theo chồng: vừa đi vừa ngoảnh lại, vừa đi vừa ngoái trông, lòng càng đau, cùng nhớ… đã phản ánh tâm trạng trên.

– Nhóm từ tới rừng ớt, tới rừng cà, tới rừng lá ngón kết hợp với động từ dại, ngóng trông khiến ta hình dung con đường đi xa ngái và trạng thái dùng dằng, bồn chồn của cô. Hình tượng ớt, cà, lá ngón tăng tiến dần, vừa thể hiện sắc thái văn hóa dân tộc, vừa là nỗi cay đắng, vò xé, thể hiện tâm trạng đau khổ, day dứt của cô gái.

Tất cả cho thấy sự bế tắc, lo lắng, đau khổ của cô gái khi về nhà chồng. Nỗi đau khổ đó bắt nguồn từ cuộc hôn nhân không tự nguyện, không tình yêu, mà nguyên nhân sâu xa là do xã hội phong kiến Thái dã dành cho cha mẹ quyền định đoạt hôn nhân của con cái, đặc biệt là với con gái.

B. Tâm tình và lời Tiễn dặn của chàng trai.

1. Tâm trạng, tình cảm của chàng trai khi tiễn đưa người yêu về nhà chồng.

Tình cảm tha thiết, quyến luyến, tình yêu sâu sắc của chàng trai:

• Qua hành động chăm sóc ân cần, thiết tha.
• Qua suy nghĩ, cảm xúc mãnh liệt: Muốn tiễn người yêu đến tận nhà chồng, tiếc nuối tình yêu quá ngắn ngủi.

Nhận thức được hoàn cảnh thực tại không thể gắn bó:

Tiễn người yêu nhưng trong lòng anh vẫn luôn luôn suy nghĩ: anh mới đành lòng quay lại mới chịu quay đi.

Tâm trạng của chàng trai rối bời, đầy mâu thuẫn khi phải từ biệt người yêu, tiễn cô về nhà chồng.

2. Lời tiễn dặn của chàng trai trong phần (1)

Lời dặn dò ở phần ( 1) cũng là lời hẹn ước của chàng trai.

• Thời gian chờ đợi được tính bằng mùa vụ: đợi tới tháng năm lau nở, đợi mùa nước đổ cá về, đợi chim tăng ló gọi hè, …
• Thời gian chờ đợi được tính bằng ca đời người: không lấy nhau mùa hạ, đợi lấy nhau mùa đông, không lấy nhau thời trẻ đợi lấy nhau khi góa bụa về già.

Chàng trai đã ước hẹn chờ đợi cô gái trong mọi thời gian, mọi tình huống. Bước đi cua thời gian được diễn tả bằng những hình ảnh quen thuộc, bình thường, thuần phác cua cuộc sống người dân tộc: tháng lau nở, nước đổ cá về, chim tăng ló gọi hè… Tất cả đã phần nào phác họa tình cảm chân thực, bền chặt của chàng trai dân tộc Thái.

Tuy nhiên, đợi có nghĩa la chấp nhận thực tại không thể gần gũi, gắn bó, nghĩa là chỉ còn hi vọng ở tương lai. Lời dặn đó thể hiện tình nghĩa thủy chung, tình yêu sâu sắc, vĩnh cửu của chàng trai, đồng thời cũng thể hiện thái độ bất lực, đành chấp nhận cuộc hôn nhân do cha mẹ hai bên định đoạt.

3. Lời tiễn dặn của chàng trai trong phần (2).

Nếu lời tiễn dặn ở phần (1) nổi bật một chữ đợi thì lời dặn dò ở phần (2) nổi bật chữ cùng với mong muốn thoát khỏi tập tục để gắn bó nhau: đôi ta cùng gỡ, ta vuốt lại quay guồng ta trôi nổi ao chùng, chùng một mái, song song, ta thương nhau, ta yêu nhau…

Sự khác nhau của hai thái độ đó bắt nguồn từ khi chàng trai chứng kiến cảnh người yêu bị hành hạ. Anh cảm thông, săn sóc cô bằng lời lẽ và hành động chia sẻ hết mực yêu thương: dậy di em, đầu bù anh chải, tóc rối anh búi, làm ống thuốc em uống khỏi đau… Trong lời nói đó còn ẩn chứa nỗi xót xa, đau đớn dường như hơn cả nỗi đau mà cô gái phải chịu. Yếu tố tự sự đã kết hợp chặt chẽ với yếu tố trữ tình, lời gọi chứa đầy cảm xúc khiến câu chuyện có sức biểu cảm lớn.

Cùng với tình cảm xót thương, anh muốn phá tung sợi dây trói buộc của tập tục Thái, là cùng người yêu sống chết bên nhau.
Từ hai lời tiễn dặn ở hai hoàn cảnh khác nhau nhưng cả hai phần đều thể hiện tình yêu sâu sắt thủy chung và quyết tâm vượt mọi trở ngại để gắn bó.

III. Kết bài.

– Những lời tiễn dặn tha thiết chính là những lời phản kháng tập tục hôn nhân dân tộc Thái ngày xưa. Nguyên nhân chia li và những nỗi đau khổ của chàng trai, cô gái trong truyện chính là do tập tục cha mẹ có quyền định đoạt duyên phận con cái. Vì vậy, những lời tiễn dặn đầy đau khổ của họ chính là những lời tố cáo, phản kháng tập tục hôn nhân đã bóp chết tình cảm yêu thương tự nhiên của con người, khiến cho họ phải suốt đời đau khổ.

– Những lời tiễn dặn cũng đồng thời thể hiện khát vọng tự do, khát vọng được giải phóng, được sống trong tình yêu của các chàng trai, cô gái ngày xưa.

Vũ Hường tổng hợp

Từ khóa tìm kiếm

  • phân tích lời tiễn dặn
  • phan tich bai loi tien dan
  • hãy tưởng tượng cảnh chia tay của chàng trai và cô gái trong đoạn trích phần 1Lời tiễn dặn
  • đoạn trích cuối tiễn dặn người yêu gợi cảm xúc gì
  • hoan canh sang tac cua bai loi tien dan
  • loi tien dan lop 10 phan tich
0