Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Văn mẫu hay lớp 9
Xem nhanh nội dung Chuyện người con gái Nam Xương – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Gia Lai Nguyễn Dữ, một học trò giỏi của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thành tài, đỗ đạt, ông ra làm quan. Một năm sau, vì chán cảnh triều đình thối nát, ông đã lấy cớ phải nuôi mẹ già mà xin từ ...
Xem nhanh nội dung
Chuyện người con gái Nam Xương – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Gia Lai
Nguyễn Dữ, một học trò giỏi của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thành tài, đỗ đạt, ông ra làm quan. Một năm sau, vì chán cảnh triều đình thối nát, ông đã lấy cớ phải nuôi mẹ già mà xin từ quan. Trong những ngày sống “cành điền viên vui tuế nguyệt", ông viết “Truyền kỳ mạn lục", một tác phẩm văn xuôi đầu tiên của văn học cổ Việt Nam gồm những truyện có những chi tiết li kì. Phần lớn ca ngợi phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam phải sống trong khuôn mẫu “tam tòng, tứ đức" của đạo đức phong kiến, mà "Chuyện người con gái Nam Xương” là một.
Truyện kể lại Vũ Thị Thiết vâng lời cha mẹ làm vợ Trương Sinh, một người kém học, đất nước gặp cảnh đao binh nên Trương Sinh phải ra trận. Một tuần sau, Vũ Nương sinh con đầu lòng. Một mình chị chăm lo mẹ chồng, lo tang ma khi mẹ chồng chết, nuôi dạy con và lo công việc đồng áng. Giặc tan, Trương Sinh về, nghe lời con mà nghi ngờ lòng chung thuỷ của vợ. Vũ Nương không minh oan được nên đành trầm mình. Nàng được hoàng hậu ở động Rùa giúp đỡ. Sau đó, nàng gặp Phan Lang, người hàng xóm đã cứu hoàng hậu ở động Rùa. Phan Lang về kể lại cho Trương Sinh nghe. Trương Sinh hối cải lập đàn cầu xin theo lời của nàng. Nàng hiện lên gặp chồng con nhưng lại quay về sống ở động Rùa vì hai người ở hai thế giới khác biệt.
Cũng như truyện cổ, những pho truyện của Trung Hoa có ảnh hưởng nhiều đến nhà Nho đương thời (thế kỉ XVI). “Thiếu phụ Nam Xương” cũ có hai tuyến nhân vật, có những hoàn cảnh điển hình, có người giàu kẻ nghèo ở trong xã hội đang thời loạn lạc, nhiễu nhương. Nhưng dù sống trong hoàn cảnh nào thì người tốt vẫn không hề thay đổi bản chất của mình, mà Vũ Thị Thiết là nhân vật tiêu biểu. Vũ Nương nhà nghèo nhưng “tư dung tốt đẹp", "thuỳ mị, nết na". Thời phong kiến, con gái "tại gia tòng phụ" để có “công, dung, ngôn, hạnh",Vũ Nương được như thế chứng tỏ nàng có sắc đẹp (dung) trời cho nhưng “thuỳ mị, nết na" thì ắt là do sự giáo dục của gia đình.
Nàng nghèo nhưng không mất nề nếp gia phong. Trái lại “Trương Sinh tuy con nhà hào phú nhưng không có học ”. Một loạt các nhân vật tốt xuất thân từ những hoàn cảnh sống khác nhau như mẹ chồng, người láng giềng Phan Lang, hoàng hậu động Rùa Linh Phi … đủ chứng tỏ giàu nghèo tuy có ảnh hưởng đến hình thức sống nhưng khó thay đổi được bản chất của họ.
“Nam Xương tử nữ truyện" không chỉ giới thiệu những nhân vật tốt, xấu ấy mà còn thông qua họ. Nguyễn Dữ muốn đề cao sự chung thuỷ và lòng bao dung luôn được nhân vật này thể hiện trong từng lời nói đến từng sự việc. Vâng lời cha mẹ chịu lấy Trương Sinh làm chồng, nàng đã trước sau như muốn làm người con hiếu thảo. Không chỉ hiếu thảo với cha mẹ ruột. Vũ Nương còn hiếu thảo với mẹ chồng. Nàng một minh đã lo toan đỡ đần mẹ chồng lúc ốm đau, rồi mẹ chồng chết lại lo chôn cất. Người phụ nữ có con mọn như nàng mà vẫn chu toàn những công việc nặng nhọc ấy thay chồng mà không tiếng kêu than thì quả thật là hiếm có. Mẹ chết, một mình ở vậy nuôi con chờ ngày chồng trở về thì bảo nàng không chung thuỷ sao cho được?! Chồng với vợ như bóng với hình, nàng đã mượn chiếc bóng cùa mình để an ủi con, muốn đứa con nhỏ dại luôn nghĩ rằng mình cũng là đứa trẻ có cha. Khi bị Trương Sinh nghi ngờ, nàng đã bao lần hỏi rõ dù bị dằn vặt, chửi mắng, đánh đập. Nàng đã từng tâm sự với chồng: “Thiếp vốn con nhà khó, được nương tựa nhà giàu … Đâu có hư thân như lời chàng nói. Khi nhận thấy không thể nào xoá tan được mối nghi ngờ nhục nhã, hạ thấp phẩm giá một cách oan khốc, nàng đã quyết định tự trầm mình, mượn dòng nước trong rửa sạch những oan khiên. Xét cho cùng, kiên quyết báo toàn danh dự của con người cũng là lòng chung thuỷ sắt son! Lại nữa khi gặp được Phan Lang, người hàng xóm tốt bụng ở động Rùa, Vũ Nương vẫn không quên chồng khi nàng tâm sự cùng Phan Lang và nhờ Phan Lang về nói lại với Trương Sinh yêu cầu của nàng, điều đó vừa thể hiện sự chung thuỷ, vừa tỏ ra bao dung đối với Trương Sinh.
Cả đến Phan Lang, hoàng hậu Linh Phi cũng đều là những người có lòng bao dung, chung thuỷ. Chỉ riêng có Trương Sinh là có lòng ích kỉ, hẹp hòi, tối dạ vì thuở nhỏ không lo chuyện sách đèn. Chỉ cần nghĩ đến công lao của vợ lúc chàng đang ở ngoài mặt trận, chỉ cần sống gần gũi với láng giềng, chỉ cần có lòng tin vào lòng chung thuỷ của vợ thì nghi vấn xuất phát từ lời nói của con nít “Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng…" đã được giãi bày để rồi vợ chồng lại sống trong cảnh đầm ấm, thương yêu.
Một nội dung khác thật rõ ràng trong chuyện là ân oán phân minh. Vũ Nương là người phụ nữ, có lẽ mang đặc tính ấy trong cuộc sống. Vì lẽ đó, khi nàng không còn đủ kiên nhẫn chờ đợi chồng biểu lộ ấy thì nàng tự biểu lộ. Cái chết của nàng hàm chứa ý nghĩa ấy, làm cho Trương Sinh phải nhận ra ân tình nàng đã mang đến cho chàng và nỗi oan khiên mà nàng phải chịu. Trường hợp giữa hoàng hậu Linh Phi và Phan Lang cũng vậy. Hoàng hậu đã được Phan Lang cứu nên khi Phan Lang gặp nạn khi lên thuyền ra biển tránh sự truy đuổi của quân giặc thì đã được Linh Phi hết lòng cứu chữa, lại thết tiệc đãi, tặng thêm ngọc ngà … trước khi tiễn chân chàng trở về làng quê.
Như thế, ngay truyện ngắn thuộc văn viết, dù là chữ Hán trong buổi sơ khai cũng đang mang hoàn cảnh điển hình, con người điển hình của đời thường vào tác phẩm; cũng có đầy đủ người giàu, kẻ nghèo, hỉ – nộ – ái – ố với kết thúc có hậu ỏ nội dung là ở hiền gặp lành.
Truyện có rất nhiều chi tiết nhưng được liên kết bởi quan hệ nhân quả nên có kết cấu khá chặt chẽ. Mở đầu truyện, Nguyễn Dữ đã khéo léo giới thiệu Vũ Thị Thiết và Trương Sinh, hai nhân vật chính có hoàn cảnh, tính cách trái ngược nhau dế làm cơ sở cho việc khai thác nhân vật sau này. Tính tình, hoàn cảnh sống trái ngược nhau nhưng lại nên vợ nên chồng chỉ vì vâng lời cha mẹ. Quan hệ nhân quả thể hiện từ đầu. Từ đó, quan hệ nhân quả của hai nhân vật diễn ra một cách tự nhiên, hợp lý. Vì nước có loạn binh đao nên chẳng mới ra trận. Vì chàng vào nơi gió cát nên nàng phải nặng gánh giang san nhà chồng. Vì con thơ nói đến cha nên mẹ đã mượn cái bóng của mình thay thế; cho con đỡ hổ thẹn với bạn bè. Vì nghe lời con trẻ nên Trương Sinh mới nghi ngờ vợ … Chuỗi nguyên nhân và kết quả đầy kịch tính ấy dã dần đến đỉnh điểm là Vũ Nương quyết định trầm mình. Nếu chuyện kết thúc ở đây thì quả là bi đát, không có hậu. Có lẽ vì thế mà những chi tiết thần kỳ được thêm vào. Ấy là Phan Lang nằm mơ thấy con rùa xanh kêu cứu. Rồi Phan Lang nhớ lại và thả rùa để rồi sau đó là được rùa cứu mạng trả ân và gặp Vũ Nương ở động Rùa. Những chi tiết thần kỳ ấy ở vào thời buổi mà vua quan, thần dân đều tin vào sự hiện hữu của Trời, Thần, Quỷ, Ma… giống như trong những truyện cổ thì cũng là điều không mấy ngạc nhiên. Có những chi tiết đó, Vũ Nương mới gặp được chồng để giải mối oan khiên, nhục nhã nhất của đời làm vợ. Và dù ra đời sau 'Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn ba thế kỷ, “Nam Xương tử nữ truyện" vẫn còn những câu văn biền ngẫu cổ xưa.
Dù có những hạn chế ấy nhưng truyện Người con gái Nam Xương" không những có giá trị đạo lý, lịch sử (phản ánh sự rối ren của xã hội phong kiến) mà cũng có giá trị nghệ thuật xây dựng truyện.
Cho tới nay, “Người con gái Nam Xương" vẫn còn lôi cuốn người đọc. Giữa xã hội nam nữ bình quyền thì nó là cột mốc để so sánh vai trò của người phụ nữ trong văn học xưa và nay. Giữa xã hội suy đồi về đạo đức, nhất là với nữ giới thì nội dung truyện là một bài học đạo đức truyền thống tốt.
Phân tích nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương – Bài làm 2
"Truyền kì mạn lục" là một tác phẩm văn xuôi có giá trị của văn học cổ nước ta ở thế kỉ XVI, một tập truyện văn xuôi đầu tiên viết bằng chữ Hán ở Việt Nam.
"Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ, tác phẩm truyền kì mạn lục là một tác phẩm hay trong tập truyện đó. Nhân vật chính là vũ nương, một phụ nữ đẹp người, đẹp nết đã phải lấy cái chết để minh oan trước sự ghen tuông vô cớ của chồng mình.
Có thể nói Nguyễn Dữ là tác giả văn xuôi tiêu biểu của văn học cổ thế kỉ XVI. Hình ảnh người con gái Nam Xương là nhân vật từng có ảnh hưởng sâu sắc đến lòng người mọi thời. Lê Thánh Tông đã từng xúc động viết trong bài thơ "miếu vợ chàng Trương":
"Nghi ngút đầu ghềnh toả khỏi hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương… "
Câu chuyện về Vũ Nương phản ánh cuộc đời đau khổ và bi thảm của Vũ nương – người phụ nữ dưới chế độ xã hội phong kiến. Người vợ phải tự vẫn để minh oan cho sự thuỷ chung của mình. Tác phẩm nêu cao chủ nghĩa nhân đạo khiến ta xúc động khi về nhân vật Vũ Nương trong truyện.
Trước hết, đọc truyện, người đọc càng thương cho thân phận Vũ Nươn và dễ dàng nhận thấy được Vũ Nương là một người phụ nữ nết na, đức hạnh, đối xử với mẹ chồng và chồng rất phải đạo và là người vợ rất mực đảm đang, nhân hậu, giàu đức khiêm tốn.
Có tư dung tốt đẹp, nhưng trong cuộc sống gia đình, nàng can tâm làm một người vợ hiền, ngoan nết "chẳng lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà", và cho dù Trường Sinh, chồng của nàng, tuy là con nhà hào phú, lại ít học, đa nghi quá sức.
Sự khiêm nhường, cam chịu của Vũ Nương là điều kiện tạo nên sự đầm ấm của gia đình, mặc cho chế độ nam quyền độc đoán đè nặng trong đầu óc kẻ vị kỉ ít học như chồng mình.
Nếu lấy sự kiện ngày Trường Sinh đi lính thú thì hạnh động và lời lẽ đưa tiễn chồng của người vợ hiền, lời thiết tha cầu mong của Vũ Nương: "Chẳng mong chàng ái gấm trở về quê cũ, chỉ mong được hai chữ bình yên thế là đủ rồi"…, "thư tính, nghìn hàng, áo rét gửi người ải xa…", " là chi tiết cho cái "công-dung-ngôn-hạnh" mà Vũ Nương đã làm được một cách chân thành.
Thế rồi, nỗi nhớ nhung, sự cô đơn, giữ mình của người vợ trẻ càng khiến chúng ta phải ca ngợi con người nhân hậu và đảm đang đó. Tính cách cao đẹp của Vũ Nương còn là lòng hiếu thảo với mẹ chồng, lòng chung thuỷ son sắt với chồng của nàng.
Khi chồng vào lính, Vũ Nương một mình đảm đang, nuôi dạy con thơ, chăm sóc thuốc thang cho mẹ chồng đau yếu, làm ma chay tống tang khi mẹ chồng qua đời. Vũ nương giữ tròn hiếu đạo với mẹ chồng, giữ tròn tình nghĩa với chồng.
Cái thói đời xưa nay thường không thể hoà hợp giữa mẹ chồng nàng dâu, nhất là trong gia đình phong kiến. Thế nhưng, dù chỉ có hai mẹ con sống với nhau (Vũ Nương với mẹ chồng) nhưng nàng xem mẹ chồng như mẹ đẻ, điều đó còn được thể hiện qua lời trăng trối của mẹ chồng nàng trước khi bà qua đời: "xanh kia sẽ chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ…"
Rồi sự chu đáo của Vũ Nương trong việc ma chay, cúng lễ đã thể hiện tấm lòng thơm thảo của người con dâu đáng quý như Vũ Nương. Lòng chung thuỷ của Vũ Nương còn được thể hiện ở hành động nuôi con, chờ chồng suốt những tháng ngày Trương Sinh đi lính mà chưa rõ mặt con. Chỉ có hai mẹ con côi cút đùm bọc, gắn bó. Cậu Bé Đản thơ ngây, đêm đến được mẹ chỉ vào cái bóng của mình trên tường gọi là cha (đó là một cách dỗ dành con ngủ thật hồn nhiên nhưng sau đó lại là nguyên nhân gây ra cái tội thậtt vô tình).
Nỗi hàm oan không được quyền nói, suy xét cho ra là bởi con người độc đoán, phàm phu lại kém văn hoá như Trương Sinh khi chàng ra lính trở về (nghe lời đứa con non dại) đã gây nên nỗi oan tày trời cho Vũ Nương. Bị chồng ghen tuông vô cớ, bao nhiêu lời giãi bày của vũ Nương và lời khuyên ngăn của láng giềng, bà con, cô bác, trương Sinh vẫn không tin và đinh ninh là "vợ hư" , mối nghi ngờ càng ngày càng lún sâu không có cách gì gỡ ra được. Chàng mắng nhiếc vợ thật thậm tệ rồi "đánh đuổi nàng đi". Vũ Nương không hề có lỗi lầm gì, nàng thuỷ chung, trinh trắng, đức hạnh vẹn toàn nhưng sự đối xử của chồng làm cho nàng hoàn toàn thất vọng, không hiểu nỗi oan khuất từ đâu mà ra. Không có cách nào để giãi bày, thất vọng bởi hạnh phúc – niềm vui "nghi gia nghi thất" không còn nữa, nàng phải tìm đến cái chết để minh oan. Hành động tự vẫn là thái độ cuối cùng nàng được phép bởi không thể giải bày được với chồng, tiết hạnh của nàng sẽ bị hoen ố, biết bao giờ phai mờ đi trong tâm trí của chồng.
Một người vợ hiền lành, đầy tiết nghĩa, thuỷ chung phải chết dẫu không có tội tình gì. Mãi đến sau cái chết đo, người chồng mới hiểu nỗi oan ức của vợ mình. chính sự độc đoán của người đàn ông trong gia đình Phong kiến mà Nho giáo nuôi dưỡng dung túng là đề tài mà Nguyễn Dữ muốn phê phán.
Bởi không chỉ hình ảnh nhân vật Vũ Nương, mà còn biết bao thân phận phụ nữ "Bảy nổi, ba chìm" đã phải sống trong cảnh đời như vậy:
"Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung"
Cái chết của Vũ Nương là số phận, nhưng cũng là lời tố cáo thói nghen tuông ích kỉ, sự hồ đồ, vũ phu của đàn ông- người chồng vô học, đa nghi như Trương Sinh- là lời tố cáo luật lệ phong kiến hà khắc dung túng cho sự độc ác, bất công- "chế độ nam quyền" dưới thời phong kiến ngự trị.
Vũ Nương trong truyện là một nhân vật rất đẹp, theo đúng quan niệm đặc điểm truyền thống, nhưng phải chịu nổi oan tày trời và phải chứng thực sự vô tội của mình bằng cái chết. Cái chết đau đớn bất công, chỉ vì sự hiểu nhầm, từ một câu nói thơ ngây của con trẻ mà người chồng Trương Sinh đã nghi oan, đã làm mất đi người vợ quý trên đời. Nguyên nhân sâu xa của bi kịch nát lòng này chính là do chiến tranh loạn lạc và lễ giáo phong kiến trọng nam quyền trong xã hội ngày trước.
Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ – Bài làm 3
Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm có giá trị của văn học cổ nước ta ở thế kỷ XVI, một tập truyện văn xuôi bằng chữ Hán đầu tiên ở Việt Nam. Truyện “ Chuyện người con gái Nam Xương” là một truyện hay trong tác phẩm đó được trích trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ.
Truyện kể về một người phụ nữ tên là Vũ Thị Thiết ở huyện Nam Xương, tỉnh Hà Nam. Vốn là một người vợ đoan chính, đảm đang. Nàng giữ lòng chung thuỷ, hầu hạ mẹ chồng, chăm sóc con thơ trong suốt thời gian chồng đi lính ở phương xa. Khi trở về vì nghe lời ngây thơ của con trẻ, người chồng nghi ngờ nàng thất tiết nên đánh mắng đuổi đi. Không thể phân giải được oan tình, nàng trẫm mình ở sông Hoàng Giang. Cảm động vì lòng trung thực của nàng, Linh Phi (vợ vua biển) cứu vớt nàng và cho ở lại Long Cung. Người chồng biết vợ bị oan nên rất hối hận, lập đàn giải oan cho nàng. Vũ Nương hiện lên, ẩn hiện trong chốc lát rồi trở lại Long Cung.
Chuyện ca ngợi một người phụ nữ có phẩm chất, có tâm hồn trong sáng, sáng ngời như ngọc lại bị nỗi oan tày trời vì một chuyện vờ ghen vớ vẩn của người chồng nông nổi. Cuối cùng nàng phải tìm đến cái chết để giải nỗi oan tình.
Tác giả đặt nhân vật Vũ Nương vào những hoàn cảnh khác nhau, qua đó bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Vũ Nương vốn là người con gái có tư dung tốt đẹp, tính tình thuỳ mị, *** na. Khi lấy chồng, nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không để vợ chồng phải thất hoà dù Trương Sinh vốn có tính hay ghen. Khi chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy tiễn chồng. Lời của nàng thật xúc động, nói về niềm yêu thương, mong nhớ của mình đối với người chồng sẽ đi xa, rồi bày tỏ nỗi lo lắng trước những gian lao nguy hiểm mà người chồng sẽ trải qua, niềm mong ước được đoàn tụ … làm mọi người trong tiệc đều ứa hai hàng lệ.
Chồng đi đánh giặc ngoài biên ải, nàng một lòng son sắt, thuỷ chung, “cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết”, mong đợi chồng về trong cô đơn mòn mỏi “mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể, chân trời không thể nào ngăn được”. Hơn nữa, nàng là một người con dâu hiếu kính, tận tuỵ chăm sóc khi mẹ chồng còn sống, chôn cất mẹ chồng khi mẹ qua đời (lo liệu như đối với mẹ đẻ mình).
Rồi đằng đẳng thời gian trôi qua, chồng ra lính trở về, cùng là lúc nàng bị nghi oan. Vũ Nương đã phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình: “Thiếp vốn con kẻ khó … mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Nàng đã nói đến thân phận mình, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định lòng chung thuỷ, hết lòng tìm cách hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ bị tan vỡ. Dù họ hàng, làng xóm có bênh vực và biện bạch, Trương Sinh vẫn không tin. Bất đắc dĩ Vũ Nương thống thiết: “Thiếp sỡ dĩ nương tựa vào chàng … đâu có thể lên núi vọng phu kia nữa!”. Đó là hạnh phúc gia đình, niềm khao khát của cả đời nàng giờ đây tan vỡ. Tình yêu không còn, cả nỗi đau khổ chờ chồng giờ đây hoá đá….
Tuyệt vọng vì phải gành chịu nỗi oan khuất tày trời không phương giải bày, cứu chữa nàng đành mượn cái chết để chứng tỏ tiết hạnh trong sáng của mình. lời khấn nguyện với thần linh vô cùng thảm thiết: “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Nga Mĩ. Nhựợc bằng lòng chim, dạ cá, lừa dối chồng con, được xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ …” lời khấn nguyện đã làm cho người đọc xót xa – con người rơi cảnh ngộ bế tắc, không thể tiếp tục sống để tự giải oan tình mà phải tìm đến cái chết để thần linh chứng dám.
Sau một năm ở thuỷ cung, khi nghe kể chuyện nhà, nàng đã ứa nước mắt khóc, nghĩ đến câu “ngựa Hồ gầm giá Bắc, chim Việt đậu cành Nam” rồi hiện về trên dòng nước cho thoả lòng nhớ chồng, con.
Qua những hoàn cảnh khác nhau của vũ Nương, với những lời tự thoại của nàng, truyện đã khẳng định những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam – một người phụ nữ đẹp người, lại *** na, hiền thục, đảm đang, tháo vát, rất mực hiếu kính với mẹ chồng, giữ vẹn lòng chung thuỷ sắt son với chồng, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình, …. lẽ ra phải được hạnh phúc trọn vẹn thế mà phải chết một cách oan uổng, đau đớn.
Cái chết của Vũ Nương có nhiều nguyên nhân sâu xa, bắt nguồn từ hiện thực nghiệt ngã của lễ giáo phong kiến của xã hội cũ, với chế độ “nam quyền”, coi rẻ thân phận của người phụ nữ, rồi tính đa nghi, ghen tuông của chồng, thói hung bạo, gia trưởng của chồng đã làm khổ đau bao cuộc đời những người phụ nữ.
Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần không bình đẳng (thiếp vốn con nhà khó, được nương tựa nhà giàu). Xã hội phong kiến lại coi trọng “nam quyền”, hơn nữa Trương Linh lại có tính đa nghi, đối với vợ thì phòng ngừa quá mức. Những chi tiết này chuẩn bị cho những hành động độc đoán của Trương Sinh sau này.
Khi đánh giặc trở về, Trương Sinh cũng mang một tâm trạng nặng nề: mẹ qua đời, con vừa học nói, lòng buồn bã. Trong hoàn cảnh như thế, lời của Bé Đản dễ kích động tính hay ghen của Trương Sinh: “trước đây, thường có một người đàn ông đêm nào cũng đến…”
Điều đáng trách là thái độ và hành động độc đoán của Trương Sinh khi ấy. Không đủ bình tĩnh để tìm hiểu vấn đề, chàng bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ, những lời bênh vực của họ hàng, làng xóm, không chịu nói ra duyên cớ ghen hờn. Cuối cùng, Sinh lại mắng nhiếc nàng và đánh đuổi nàng đi. Thái độ và hành động của Trương Sinh vô hình dung dẫn đến cái chết oan nghiệt của Vũ Nương.
Hành động gieo mình xuống sông Hoàng Giang của Vũ Nương phản ánh một thực trạng về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ bị buộc chặt trong khuôn khổ khắt khe của lễ giáo, bị đối xử bất công, bị áp bức và chịu nhiều khổ đau, bất hạnh. Đó cũng chính là giá trị tố cáo hiện thực của tác phẩm. Đằng sau nỗi oan của người thiếu phụ Nam xương, còn bao nhiêu oan tình bất hạnh mà người phụ nữ ngày xưa phải gánh chịu: Nàng Kiều trong “Truyện Kiề”u của Nguyễn Du, người cung nữ trong “cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều, người phụ nữ lỡ duyên tình trong thơ Hồ Xuân Hương, …
Phải nhận thấy rõ rằng với truyện ngắn đầu tiên viết bằng chữ Hán, Nguyễn Dữ đã có những mặt thành công trong nghệ thuật xây dựng truyện, xây dựng những đoạn đối thoại. Cách kể chuyện hấp dẫn, xây dựng tình tiết, thắt nút và gỡ nút thật bất ngờ, đầy kịch tính, càng làm cho nỗi oan tình của nhân vật hiện ra với tất cả nét thảm khốc.
“Thắt nút” truyện bằng yếu tố bất ngờ. Một câu nói ngây thơ nghe như thật của trẻ thơ mà gây bão tố dây chuyền trong cuộc đời. Bão tố nghi kị trong một đầu óc nam quyền độc đoán, thiếu trí tuệ ; bão tố bất hoà dữ dội phá tan hạnh phúc của một gia đình êm ấm. Bão tố oan khiên phá nát cuộc đời của một người con gái trong trắng, phải kết thúc bi thảm trêm một dòng sông.
“Gỡ nút” cũng bất ngờ bằng một câu nói trẻ thơ non dại (khi chỉ cái bóng của chàng Trương trên vách: “cha Đản lại đến kia kìa” thì bao nhiêu oan khiên gây thảm kịch trong phút chốc bỗng được sáng tỏ.
Truyện có những đoạn đối thoại và những lời tâm tình của nhân vật được sắp xếp đúng chỗ, làm cho câu chuyện trở nên sinh động, góp phần khắc hoạ diễn biến tâm lí và tính cách nhân vật ; lời nói của bà mẹ Trương Sinh nhân hậu, từng trải ; lời lẽ của Vũ Nương bao giờ cũng chân thành, dịu dàng, mềm mỏng, có lí, có tình – lời của người phụ nữ hiền thục, đoan chính ; lời của Bé Đản hồn nhiên, ngây thơ, thật thà.
Chuyện đáng lẽ có thể kết thúc ở đoạn “gỡ nút” truyện, chàng Trương Sinh tỉnh ngộ, thấu hiểu nỗi oan của Vũ Nương nhưng Nguyễn Dữ đã thêm phần Vũ Nương trở về dương thế, gặp chồng trong thoáng chốc. So với truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, Nguyễn Dữ đã tái tạo truyền kì từ cổ tích để nâng truyện lên những giá trị tư tưởng và thẩm mĩ mới. Điều đó, làm tăng thêm sức hấp dẫn của truyện và hoàn chỉnh tính cách nhân vật Vũ Nương, thoả mãn ước mơ của nhân dân là “ở hiền gặp lành”, ngưởi tốt sẽ được đền bù. Truyện kết thúc có hậu. Trong truyện, những yếu tố truyền kì tập trung ở phần sau của truyện như con rùa mai xanh được Phan Lang cứu, Vũ Nương được ở lại Thuỷ Cung, rồi hiện về với kiệu hoa rực rỡ trên sông… đó là những tình tiết kì ảo, không có thực nhưng đã tạo ra một thế giới nghệ thuật lung linh huyền ảo.
Số phận và cuộc đời thực sự vẫn là thực xưa nay. Yếu tố hoang đường truyền kì không thể cứu được cuộc đời Vũ nương với số phận bi thảm của nàng. Vũ Nương muốn sống lại mà không được sống, muốn trở về với chồng con và quê hương mà không thể trở về được.
Truyện “Người con gái Nam Xương” có giá trị hiện thực tố cáo và ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Nghĩ về Vũ Nương và biết bao thân phận người phụ nữ khác trong xã hội phong kiến được phản ánh trong các tác phẩm văn học cổ, chúng ta càng thấy rõ giá trị cuộc sống của những người phụ nữ Việt Nam trong một xã hội tốt đẹp hôm nay. Họ đang vươn lên làm chủ cuộc đời, sống bình đẳng, hạnh phúc với chồng con và được đề cao nhân phẩm trong xã hộ, xã hội của thời đại mới.
Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Bài làm 4
Từ thế kỉ thứ XVI, nền văn học trung đạ1 Việt Nam bắt đầu xuất hiện thể loại văn xuôi, truyện ngắn, tuỳ bút. Một trong những tác phẩm đó là tập truyện ngắn Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Ngay từ khi mới ra đời cho đến nay, áng văn chương này đã được nhiều người đánh giá là "Thiên cổ kì bút" – cây bút kì diệu truyền tới ngàn đời. Truyện ngắn Chuyện người con gái Nam Xương là tác phẩm thứ 16 trong số 20 truyện của tập "Kì bút" đó. Nhà nho Nguyễn Dữ khơi nguồn từ một truyện cổ tích vốn chỉ có cốt truyện sơ sài mang tên là truyện Vợ chàng Trương, rồi bổ sung chi tiết, xây dựng nhân vật, gọt giũa lời văn,… sáng tạo nên một áng văn chương bác học đặc sắc, lạ kì.
Từ một việc đùa vui – đêm đêm người mẹ chỉ vào chiếc bóng của mình nói với đứa con nhỏ rằng đó là cha của nó – câu chuyện kể về số phận oan nghiệt của một người phụ nữ có nhan sắc, đức hạnh, dưới chế độ phụ quyển phong kiến bị nghi ngờ, bị sỉ nhục, bế tắc, phải tự vẫn. Tuy xa lìa cõi trần đau khổ, nhưng xuống dưới thuỷ cung, người phụ nữ ấy đã được sống an lành giữa các thần tiên. Tác phẩm thấm đẫm nỗi xót thương một kiếp người oan khổ, đồng thời thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta là người tốt phải được đền trả xứng đáng dù chỉ là ở một thế giới huyền bí. Nếu người trần không hiểu được chiếc bóng âm thầm, lặng lẽ mà oan nghiệt kia thì thần tiên linh diệu sẽ giải oan cho chiếc bóng, rửa nỗi khổ đau cho con người… Đấy là đại ý, là cảm hứng toát ra từ câu chuyện và cũng là những lớp nghĩa hàm ẩn mà chúng ta có thể đọc – hiểu và suy ngẫm được. Những giá trị nội dung hiện thực và lãng mạn đó của tác phẩm được biểu hiện trong số phận, phẩm chất, tính cách các nhân vật.
Nhân vật thứ nhất: nàng Vũ Nương. Đó là một người vợ đoan chính, một nàng dâu thảo hiền, một người mẹ rất mực thương con, vậy mà bị hàm oan, rơi vào đau khổ, bế tắc. Kể về phẩm chất và bi kịch của Vũ Nương, tác giả đặt nhân vật vào những tình huống, sự việc, chi tiết cụ thể. Tinh huống thứ nhất: trong cuộc sống vợ chồng bình thường, nàng biết rõ chồng có tính đa nghi nên đã "giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chổng phải đến thất hoà", mâu thuẫn. Nàng vốn tính thuỳ mị, nết na, tư dung tốt đẹp, nhưng không được sống cảnh hạnh phúc gia đình yên ấm lâu dài. Nước nhà có biến, vợ chổng nàng phải tạm xa nhau. Tình huống thứ hai : khi tiễn chồng ra trận, Vũ Nương đã cư xử rất đúng mực, chân tình. Nàng rót chén rượu đầy và nói những lời đưa tiễn, dặn dò ngọt ngào, nồng đượm một tình yêu chung thuỷ: "Thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường…". Như vậy, điêu mơ ước lớn lao nhất của Vũ Nương không phải là danh vọng mà là một cuộc sống gia đình yên ấm. Biết chồng dấn thân nơi trận mạc, nàng rất xót thương và lo lắng. Còn phận người vợ ở nhà, Vũ Nương bày tỏ nỗi khắc khoải, nhớ nhung da diết bằng những lời nói ân tình, ai nghe mà không xúc động : "Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình…". Đúng là lời nói, cách nói của một người thuỳ mị, dịu dàng, từng nhịp, từng nhịp biền ngẫu đối xứng, khoan hoà như nhịp đập của trái tim vậy. Trái tim ấy giàu tình yêu thương, biết chịu đựng những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa, đáng trân trọng biết bao. Tình huống thứ ba : Trong những ngày tháng xa chồng, tình cảm và việc làm của Vũ Nương đáng trân trọng hơn. Một mình nàng phải đảm đương mọi việc trong gia đình. Một mình nàng chia sẻ tình cảm yêu thương với tất cả mọi người trong nhà. Với chồng, "mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được". Nàng vừa thương chồng vừa nhớ chồng, thương và đau buồn cho chính mình phải cô đơn vò võ. Với con, đứa bé ra đời khi cha nó vừa đi xa, nàng cũng yêu thương da diết. Nàng đã tìm mọi cách để nuôi dạy, chăm sóc và an ủi để con khỏi thấy trống vắng khi không có cha bên cạnh. Còn với mẹ chồng, Vũ Nương thật xứng đáng là nàng dâu hiền thảo. Bà cụ ốm "Nàng hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn". Tinh thương yêu chân thành và việc làm nhân hậu ấy của Vũ Nương khiến bà mẹ chồng vô cùng mến thương, cảm động. Trước khi qua đời, cụ đã trăng trối lại với nàng : "Chồng con nơi xa xôi chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ". Những lời nói chân tình như trên của bà mẹ chổng đã chứng minh tình nghĩa mẹ chồng – nàng dâu của Vũ Nương tốt đẹp biết bao, vượt lên trên thói đời. Có thể nói, trong ba tư cách : một người vợ, một người con, một người mẹ, nàng Vũ Nương đã nêu cao phẩm hạnh của người phụ nữ Việt Nam đảm đang giàu tình thương, thuỷ chung, vô cùng nhân hậu, đáng được ngợi ca, đáng được đển ơn, đáp nghĩa.
Nhưng, con người đức hạnh ấy đã bị hàm oan, bị nghi ngờ, ruồng rẫy. Tinh huống thứ tư của câu chuyện kể rõ cái bi kịch và nỗi đau khổ ấy của Vũ Nương. Sau khi kể lướt qua sự việc Trương Sinh nghe lời đứa con nói "thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến…", rồi vể nhà la mắng vợ, tỏ thái độ nghi ngờ, đánh đập vợ, nhà văn tập trung bút lực ghi lại những lời nói, lời giãi bày, thanh minh của Vũ Nương, đẩy mâu thuẫn của truyện đến đỉnh điểm, tô đậm thêm số phận và tính cách nhân vật.
Lời nói thứ nhất: Vũ Nương nói trong nước mắt, vừa khóc vừa nói : "Thiếp vốn con kẻ khó… Sum họp chưa thoả tình… Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết…, ngõ liễu tường hoa chưa hẻ bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ…". Vũ Nương nói vậy để chồng hiểu bản chất tốt đẹp của mình, tình cảm đơn chiếc và khẳng định tấm lòng chung thuỷ, trong trắng của mình. Nàng cầu xin chồng đừng nghi oan, nghĩa là hết lòng tìm cách hàn gắn lại hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ.
Lời nói thứ hai: Vũ Nương nói trong tâm trạng "bất đắc dĩ", mà không thể chịu đựng, không thể cầm lòng được. Nàng nói lên nỗi thất vọng khi không hiểu vì sao lại bị đối xử tàn nhẫn, bị "mắng nhiếc… đánh đuổi đi", không có quyền được tự bảo vệ, được thanh minh. Ngay cả khi có "Họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho", nàng cũng vẫn bị dồn tới chỗ đơn độc. Hạnh phúc gia đình, niềm khao khát được hưởng "thú vui nghi gia nghi thất" dường như đã tan vỡ. Tinh yêu thương, lòng tin không còn nữa. Tất cả đã "bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió…". Cả nỗi đau khổ chờ chồng đến hoá đá như núi vọng phu cũng chẳng còn ý nghĩa gì nữa… Chỉ một đoạn văn ngắn mà tác giả vẽ nên bao nhiêu hình ảnh thiên nhiên với bao nhiêu nét biểu hiện của những mất mát đáng tiếc, những cái chết vô cùng xót xa. Nào là "bình rơi trâm gãy", nào là "sen rũ", "liễu tàn…" và "khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa…". Nhà vãn đã mượn thiên nhiên để biểu hiện tâm trạng con người theo phong cách ước lộ của văn chương trung đại. Ngôn từ, nhịp điệu của hai câu vãn ấy ngân nga, tượng hình, biểu cảm, làm xúc động tâm hồn bạn đọc chúng ta.
Xúc động nhất là khi nghe lời than thở của Vũ Nương bên bờ sông Hoàng Giang. Nàng không nói mà "than", không than thở vơi chồng, với con người nữa mà "ngửa mặt lên trời", than với trời, giãi bày tấm lòng và phẩm hạnh của mình với vũ trụ bao la. Vũ Nương đau đớn hiểu rằng cuộc hôn nhân, hạnh phúc gia đình của nàng không thể hàn gắn được. Thất vọng đến tột cùng, chán chường cũng đến tột độ. Nhưng nàng vẫn "tắm gội chay sạch", vẫn giữ gìn bảo vệ hình hài tư dung đẹp đẽ để gặp gỡ dòng sông quê hương, để tâm sự với trời đất: "Kẻ bạc mệnh này… thần sông có linh, xin ngài chứng giám". Lời than ấy chính là lời nguyển. Vũ Nương nêu lên hai giả định về kiếp sau của mình bằng những hình ảnh đối lập : "ngọc Mị Nương", "cỏ Ngu mĩ" và "mồi cho cá tôm… cơm cho diều quạ". Tuy giả định hai khả năng về phẩm giá của mình, nhưng thực chất Vũ Nương khẳng định trước sau, khi sống cũng như khi chết mình vẫn luôn là một con người chân chính, một người vợ đoan trang chung thuỷ. Nói xong nàng gieo mình xuống sông, tự vẫn… Hành động này của Vũ Nương thật là quyết liệt, đẩy câu chuyện đến độ cao trào, đầy kịch tính. Vũ Nương tìm đến cái chết vừa để bảo toàn danh dự vừa để đấu tranh phê phán người chồng cả ghen, thiếu niềm tin trong quan hệ vợ chồng. Đó cũng là một hành động bế tắc, đau khổ của một kiếp người đơn độc theo cách ứng xử của người xưa. Còn ngày nay, nếu ai đó bị rơi vào hoàn cảnh éo le tương tự, chắc sẽ không như Vũ Nương, tìm đến cái chết tuyệt vọng mà sẽ bình tĩnh, kiên trì tìm mọi cách – bằng lời nói, bằng việc làm cụ thể… để tự bảo vệ, minh oan cho mình, chống lại tất cả những gì bất công, phi lí, độc đoán, nhẫn tâm… Dù sao thì Vũ Nương, người phụ nữ sống trong xã hội phong kiến ấy cũng rất đáng thương, đáng trân trọng. Với nàng, không còn con đường nào khác. Nàng đã hành động quyết liệt nhất sau bao nhiêu cay đắng, bao nhiêu giãi bày, đấu tranh và… van nài.
Có thể nói Vũ Nương là một phụ nữ xinh đẹp, nết na hiền thục, lại đảm đang, tháo vát, rất mực hiếu thảo thờ kính mẹ chồng, một dạ thuỷ chung với chồng, hết mực thương con, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình. Một con người như thế, đáng ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà phải đối mặt với biết bao oan uổng, đau đớn rồi lại phải chết một cách lặng lẽ, bi thương. Khắc hoạ một nhân vật vừa có phẩm hạnh mang, tính đạo đức truyền thống Việt Nam, vừa phải chịu những đau khổ khá tiêu biểu cho biết bao phụ nữ nước ta thời xưa, nhà văn Nguyễn Dữ biểu hiện tấm lòng trân trọng và xót thương sâu sắc. Mỗi hình ảnh, mỗi từ ngữ, câu văn dành cho nhân vật đéu đậm đà cảm hứng nhân văn, lay động tâm hồn bạn đọc chúng ta.
Nhân vật thứ hai : Trương Sinh. Nếu Vũ Nương là một chân dung có nhiều nét đẹp, thì Trương Sinh là một hình ảnh của con người mang nhiều tính xấu. Ngay vào đầu câu chuyện, nhà văn đã kể : "Trương có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức… tuy con nhà hào phú nhưng không có học…". Nhân vật hiện lên với vài nét phác thảo như thế cũng đủ bộc lộ tính cách con người.
Sau ba năm ở quân ngũ về, tính cách của Trương Sinh bộc lộ rõ dần. Vừa vế tới nhà biết mẹ đã qua đời, Trương Sinh mang tâm trạng nặng nề. Chàng nói "mẹ đã qua đời, con vừa học nói… Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lám rồi". Nỗi lòng ấy của Trương Sinh đáng được thông cảm. Nếu là người giàu tình thương, biết thương mẹ, thương con, hẳn chàng cũng biết thương vợ và cảm thông những nỗi vất vả của vợ trong ba năm mình xa nhà. Nhưng éo le thay, chàng lại phải đối mặt với một sự việc không bình thường. Đó là câu chuyện của hai cha con khi viếng mộ bà mẹ. Lời của dứa trẻ lên ba hồn nhiên, ngây thơ đã kích động tính đa nghi, thói ghen tuông trong lòng Trương Sinh. Lời nói được tách làm hai phẩn nêu những thông tin mập mờ, đáng suy nghĩ. "Thế ra ông cũng là cha tôi ư ?". Thoạt đầu đứa trẻ ngạc nhiên thấy mình có hai người cha, một người cha cũ và một người cha mới. Sau đó, đứa trẻ kể về người cha mà nó từng biết. Đó là một người "chỉ nín thin thít… một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả". Chao ôi, toàn là những dữ liệu đáng ngờ ! Tuy chỉ là lời thỏ thẻ của trẻ lên ba nhưng sao nó chân thật làm vậy. Tục ngữ cổ xưa từng đúc kết kinh nghiệm "Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ". Thế là vốn sẵn tính đa nghi, hay ghen, lại đang trong tâm trạng buồn khổ, Trương Sinh đã "đinh ninh là vợ hư". Chàng "đinh ninh", nghĩa là đã khẳng định điều mình nghe được là chính xác, khẳng định rằng vợ mình không chung thuỷ, đã hư đốn, đã phản bội mình. Đó là cách suy nghĩ vội vàng, một chiều của con người vốn độc đoán.
Từ sự suy nghĩ ấy, Trương Sinh đã xử sự hồ đồ. Chàng không bình tĩnh để phán đoán, phân tích lời đứa con nói, cũng không thẳng thắn, hỏi han, hoặc "chất vấn", thậm chí có thể theo dõi hành động, thái độ của vợ… Trái lại, chàng đã không chịu nghe những lời phân trần của vợ, không tin cả những nhân chứng bênh vực cho nàng, cũng không để cho vợ có cơ hội giãi bày, giảng giải, minh oan. Nút của câu chuyện mỗi lúc thêm căng thẳng. Đỉnh điểm là thái độ và hành động của Trương Sinh. Chàng trở thành kẻ vũ phu, thô bạo "mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi". Thế là bi kịch đã xảy ra. Vũ Nương bị đẩy đến cái chết oan nghiệt. Trong những nguyên nhân của cái chết ấy có bàn tay của Trương Sinh. Chàng chính là người đã bức tử người vợ đáng yêu đáng quý nhất của mình. Chỉ đến khi còn lại hai cha con vò võ một mình, đối mặt với cái bóng của chính mình – cái bóng oan khiên, chàng mới thấu tỏ nỗi oan tình của vợ. Hạnh phúc đã tan vỡ. Lỗi lầm của chàng không sao sửa nổi!
Như vậy, nhân vật Trương Sinh tiêu biểu cho những người đàn ông nặng tư tưởng phụ quyền trong xã hội phong kiến xưa, cũng là biểu tượng cho tất cả những ai trong cõi đời này mang thói ghen tuông vô cớ, sống không có niềm tin, lại vũ phu, tàn nhẫn,… Nhân vật có ý nghĩa phê phán nghiêm khắc xã hội, đồng thời cảnh tỉnh con người trong cuộc sống xưa cũng như ngày nay.
Ngoài bi kịch của hai nhân vật chính trong câu chuyện, tác phẩm còn kể thêm phần "Truyền kì", mang tính lãng mạn, kì ảo, khá thú vị. Điều đáng nói là ý nghĩa của những yếu tố truyền kì ấy. Trước hết, nó hoàn chỉnh thêm nét đẹp của nhân vật Vũ Nương. Dù ở thế giới khác, nàng vẫn nặng tình với đời, quan tâm đến chồng con, phần mộ tổ tiên, vẫn khao khát được phục hồi danh dự. Điều quan trọng hơn là những yếu tố truyền kì ấy đem lại cho tác phẩm một cách kết truyện có hậu. Nó như khúc vĩ thanh trong bản nhạc để ngân lên những ước mơ ngàn đời của nhân dãn ta rằng cuộc đời luôn công bằng, người tốt dù trải bao oan khuất, cuối cùng sẽ được đền trả xứng đáng, cái thiện bao giờ cũng chiến thắng… Nhờ đoạn vĩ thanh truyền kì này, tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương vợi đi phần nào âm hưởng bi thương, đau đớn, để dánh thức trong lòng người đọc những niềm tin, những mong muốn tươi sáng, lạc quan.
Thể hiện những khía cạnh nội dung sâu rộng như trên, Chuyện người con gái Nam Xương đã đạt tới những đặc sắc nghệ thuật rất đáng trân trọng. Trước hết là cách dẫn dắt tình huống, sự việc, chi tiết của truyện. Tất cả mọi diễn biến tính cách, số phận nhân vật xoay quanh hình ảnh "cái bóng". Cái bóng ấy không xuất hiện ở phần đầu, phần giữa, cũng không được miêu tả nhiều lần – trong dời thực của hai mẹ con Vũ Nương nó từng hiên lên hàng đêm – mà I1Ó xuất hiện ở cuối tác phẩm, chỉ một lần duy nhất, lại là cái bóng của chính Trương Sinh. Nhờ tài sắp xếp chi tiết như thế của nhà văn mà câu chuyện trở nên hồi hộp, hấp dẫn, kịch tính mỗi lúc một căng thẳng, khiến người đọc không thể buông rời trang sách. Cái bọng oan nghiệt biết bao, cái bóng thắt buộc và cũng mở gỡ tài tình biết bao. Cùng với nghê thuật dẫn dắt tình tiết câu chuyện, nhà văn đã khắc hoạ nhân vật, nhất là nhân vật Vũ Nương, Trương Sinh và bé Đản.
Các nhân vật hiện lên với lời nói, việc làm, cử chỉ bộc lộ sự diễn biến tàm trạng tính cách khá lô gích, chặt chẽ. Thêm nữa, lời kể, giọng văn và những hình ảnh so sánh, ẩn dụ, tuy có phần ước lệ, nhưng vẫn sinh động, chất hiện thực lãng mạn hài hoà, biểu ý và biểu cảm kết hợp nhuần nhị.
Tóm lại, Chuyện người con gái Nam Xương khẳng định nét đẹp tâm hồn mang tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, đồng thời thể hiện niềm thương cảm cho số phận nhỏ nhoi, đầy tính chất bi kịch của họ dưới chế đô phong kiến. Đây là một áng văn hay, thành công về mặt dựng truyện, khắc hoạ nhân vật, kết hợp tự sự, trữ tình và kịch, kết hợp ngòi bút hiện thực và lãng mạn. Từ một chiếc bóng oan nghiệt, tác phẩm thấm đẫm cảm hứng nhân văn, mở ra trước mắt người đọc biết bao điều sâu rộng về tình nghĩa vợ chồng, về quan hệ giữa người với người. Đó là một áng "Thiên cổ kì bút", đáng tìm hiểu và suy ngẫm…
Thu Thủy (Tổng Hợp)