28/05/2017, 21:17

Phân tích Nỗi sầu oán của người cung nữ trích Cung oán ngâm

Đề bài: Phân tích Nỗi sầu oán của người cung nữ trích Cung oán ngâm Dàn ý 1. Mở bài: – Trong chế độ phong kiến ngày xưa, các bậc vua chúa phương Đống thường tự đặt ra cho minh cái quyển được đa thô ; ngoài hoàng hậu, cung phi ra cỏn có: Ba tràm mĩ nữ, sáu mươi cung tần… – Vi vậy, ...

Đề bài: Phân tích Nỗi sầu oán của người cung nữ trích Cung oán ngâm Dàn ý 1. Mở bài: – Trong chế độ phong kiến ngày xưa, các bậc vua chúa phương Đống thường tự đặt ra cho minh cái quyển được đa thô ; ngoài hoàng hậu, cung phi ra cỏn có: Ba tràm mĩ nữ, sáu mươi cung tần… – Vi vậy, rất nhiều phụ nữ trẻ đẹp phải âm thầm chịu đựng tình cảnh bị bỏ rơi, bị lãng quên trong cung cấm. số phận bất hạnh của họ đã khiến cho văn nhân thi sĩ cảm thương mà viết ra ...

Đề bài:

Dàn ý

1. Mở bài:
– Trong chế độ phong kiến ngày xưa, các bậc vua chúa phương Đống thường tự đặt ra cho minh cái quyển được đa thô ; ngoài hoàng hậu, cung phi ra cỏn có: Ba tràm mĩ nữ, sáu mươi cung tần…
– Vi vậy, rất nhiều phụ nữ trẻ đẹp phải âm thầm chịu đựng tình cảnh bị bỏ rơi, bị lãng quên trong cung cấm. số phận bất hạnh của họ đã khiến cho văn nhân thi sĩ cảm thương mà viết ra một sô' tác phẩm, trong đõ Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều là tiêu biểu nhất.
– Đoạn.trích Nỗi sầu oán của người cung nữ (từ câu 209 đến câu 244) diễn tả tâm trạng đau khổ của người cung nữ bị thất sủng ; phải sống cô đơn giữa bốn bức tường lạnh giá. Nàng xót xa cho tuổi thanh xuân trôi qua hoài phí và uất ức than thở về những bất công mà mình phải chịu đựng. Đấy là tiếng nói tố cáo sầu sác tội ác của vua chúa phong kiến thời ấy.
2. Thân bài:
* Kết cấu đoạn trích gồm hai đoạn nhỏ:
– Đoạn 1: Bốn khổ thơ đầu: cảnh cung cấm xa hoa tráng lệ đối lập với tinh cảnh lẻ loi, buồn tủi của cung nữ bị bỏ rơi, bị lãng quên.
– Đoạn 2: Năm khổ thơ còn lại: cảnh sống đày đoạ kéo dài của người cung nữ với nỗi thất vọng nặng nể trong cảnh ngày đêm ngóng trông, chờ đợi nhà vua.
* NỘI dung đoạn trích:
+ Cảnh cung cấm xa hoa, đạp đẽ đổi lập với tinh cảnh lẻ loi, buồn tủi đáng thương.
– Tác giả chọn thời điểm là ban đồm để nhân vật dễ dàng bộc lộ tâm trạng. Bị nhà vua bỏ rơi trong cung quế, người cung nữ suốt năm canh đứng tủi ngồi sáu, khắc khoải chờ mong và tuyệt vọng:
Trong cung quế âm thẩm chiếc bóng,
Đêm năm canh trông ngóng lán lán.
– Trong tinh cảnh đó, người cung nữ ý thức rất rõ vé thân phận bất hạnh của mình. Nàng đã bị giết chết khổng phải bằng gươm đao mà bằng chinh cuộc sống buồn bã và tuyệt vọng, bởi cảnh chiếu chăn lẻ loi, lạnh lẽo… Qua lời than trách của nàng, hình ảnh nhà vua hiện lên đúng lả một kẻ bạc tinh: Khoảnh làm chi bấy chúa xuân, Chơi hoa cho rữa nhuỵ dần lại thôi… Người cung nữ bổi hổi, nuối tiếc khi nhớ lại những ngày đầu được vua sủng ái. Còn giờ đây, nàng đã thực sự bị quên lãng.
– Sự tương phản giữa khung cảnh xa hoa tráng lệ nơi cung vàng điện ngọc với cuộc sống bất hạnh của các cung nữ càng làm cho hình ảnh của họ trở nên nhỏ bé đến tội nghiệp:
Lầu đãi nguyệt / đứng ngồi dạ vũ,
Gác thừa lương thúc / ngủ thu phong.
Phòng tiêu / lạnh ngắt như đồng,
Gương loan / bẻ nửa, dải đổng / xẻ đôi…
– Những tiện nghi đầy đủ, đẹp trở nên trớ trêu. vô nghĩa khi ngươi cung nữ thêm sầu thêm tủi.
– Những câu thơ tiếp theo miêu tả cuộc đày ải. kéo dài trọng cung cấm. Người cung nữ mong mòi sự có mặt của nhà vua đến mức gần như tuyệt vọng: Chiều ủ dột giấc mai khuya sớm… Lầu Tẩn, chiểu nhạt vẻ thu, Gối loan tuyết đóng, chăn củ giá đông…
+ Cảnh sóng buồn tủi kéo dài và nỗi thất vọng nặng nể.
– Nỗi sáu có lúc lên tới điểm đỉnh, biến tâm trạng người cung nữ thành u uất, nặng nề, bức bối gần phu nghạt thở: Lạnh lùng thay giấc cô-miên, Mùi hương tịch mịch bóng đòn ăm u…
■ Nỗi cỏ đơn khiến giấc ngủ của nàng trò.nỗn lạnh lẽo, đáng thương. Hương đót lên cho tiêu phòng ấm áp, thơm tho nhưng lại gợi cảm giác vắng, lặng, tịch mịch như một nấm mổ chôn vùi tuổi thanh xuân…
– Đôm đêm, người cung nữ chỉ biết âm thầm sống với cái bóng của mình: Một mình đứng tủi ngồi sáu, Hết than với bóng lại rầu với hoa… Cả đoạn thơ khắc hoạ nổi bật hình dáng và tâm trạng cô độc, buồn tủi đến đớn đau, khắc khoải tức tối của người cung nữ trổ đạp mà bị coi như đã chết.
– Trong nỗi buồn dai dẳng ấy chứa đựng cả sự uất ức, trách hờn, đay nghiến: 

Buồn mọi nỗi lòng đà khắc khoải,
Ngán trảm chiều bước lại ngẩn ngơ.
Hoa này bướm nỡ thờ ơ,
Dể gầy bông thắm để xơ nhuỵ vàng…
■ Hai câu thơ: Giết nhau chẳng cái lưu cầu, Giết nhau bằng cái u sấu, độc chưa! giống như tiếng nghiến ràng căm giận, lên án chế độ đa thô và tục tuyển cung tần mĩ nữ của vua chúa thời phong kiến, bởi nó chà đạp, tước đoạt quyển sống tự do, quyển được hưởng hạnh phúc của người phụ nữ.
– Sức sống dồi dào và khát vọng hạnh phúc càng mãnh liệt bao nhiêu thì nỗi oán hận càng chất ngất bấy nhiêu trong lòng người cung nữ. Tưởng chừng như tất cả sắp bùng nổ thành hành động phản kháng dữ dội:
Tay nguyệt lảo chẳng xe thì chớ,
Xe thổ này có dở dang không ?
Dang tay muốn dứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra
– Chất trữ tinh trong đoạn trích được tạo ra từ hai cảm xúc trái ngược: cảm xúc buồn chán nặng nể đo bi giam hãm lâu ngày trong cảnh tù túng, nghạt thở với cảm xúc khát khao cháy bỏng hạnh phúc đời thường. Người cung nữ như đang cố vùng vẫy để thoát khỏi bi kịch của số phận nhưng nó như sợi dây oan nghiệt cứ thắt chặt lấy nồng.
3. Kết bài:
Bằng ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật tài tinh, sắc sảo, kết hợp vơi khả năng sử dụng từ ngữ chuẩn xác, phong phú, tác giả đã thể hiện thành công tâm trạng phức tạp của người cung nữ. Sự đổng cảm chân thành của nhà thơ đã tạo nôn giọng điệu réo rắt, đầy sáu khổ oán hờn trong đoạn trích nói riêng và cả tác phẩm nói chung.
– Nỗi sầu oán của người cung nữ đã cất lên tiếng nói tố cáo chế độ đa thô và tục tuyển cung tẩn mĩ nữ tàn bạo của vua chúa; đổng thời cũng phản ánh tấm lòng nhản đạo của tác giả trước những-số phận bất hạnh. Đoạn trích là tiếng nói thiết tha dòi quyền sống, quyển được hưởng hạnh phúc của phụ nữ trong chế độ phang kiến xưa kia.
«1- BÀI LÀM
Tập tuyển cung nữ là thực trạng tội ác của vua chúa phong kiến kéo dài hàng nghìn năm. Ngày xưa, các bậc vua chúa tự đặt ra cho minh quyền được có: Ba trăm mĩ nữ, sáu mươi cung tần. Hàng trăm thiếu nữ trẻ đẹp được tuyển vào cung. Người trúng tuyển phải ở “tiêu phòng" cho đến già, đoạn tuyệt với gia đình, làng xóm, không được liên lạc với mọi sinh hoạt của xã hội bôn ngoài, số phận bất hạnh của những người cung nữ đã làm động lòng nhiều nhà văn, nhà thơ nhất là dưới thời vua Lê, chúa Trịnh. Có một số tác phẩm viết về họ nhưng không tác phẩm nào có được tiếng nói tố cáo sâu sắc như Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiểu.
Cung oán ngâm là khúc ca ai oán, uất hận của người cung nữ tài sắc lúc đầu được vua yêu chuộng, nhưng chẳng bao lâu đã bị bỏ rơi giữa tuổi thanh xuân. Nỗi hờn tủi cứ theo ngày tháng mà dâng lên tràn ngập tâm hồn, giày vò, day dứt nàng khôn nguôi, ở trong cung cấm, nàng xót thương cho thân phận minh và oán trách nhà vua phụ bạc. Qua khúc ngâm, tác giả phản ánh tâm trạng đau khổ của người cung nữ phải sống trong cảnh đợi chờ đến tuyệt vọng; đổng thời thể hiện quan niệm của mình trước cuộc đời bạc bẽo. phù du.
Đoạn trích gồm 36 câu (từ câu 209 đến câu 244), diễn tả tâm trạng đau khổ của người cung nữ bị thất sủng. Nàng sống cô đơn giữa bốn bức tưởng lạnh giá, xót xa cho tuổi xuân trôi qua hoài phí và uất ức than thở về những bất công dành cho thân phận minh.
Có thể chia đoạn trích làm hai đoạn nhỏ:
Đoạn 1: Bón khổ thơ đẩu: cảnh cung cấm xa hoa tráng lệ và cuộc sống lẻ loi, buồn tủi của người cung nữ bị thất sủng.
Đoạn 2: Năm khổ thơ tiếp theo: Cảnh sống đày đoạ kéo dài với nỗi thất vọng nặng nề mà người cung nữ phải gánh chịu.
Mở đầu đoạn trích, hình ảnh cô đơn của người cung nữ hiện lên rất rõ nót: Trong cung quế ảm thầm chiếc bóng Đêm năm canh trồng ngóng lần lần
Sự đối lập giữa khung cảnh xa hoa, tráng lệ với cuộc sống tối tăm u uất nơi cung cấm làm nổi bật bóng dáng nhỏ bé đến tội nghiệp. Nhà thơ đã chọn thời gian ban đêm để nhân vật trữ tinh dễ dàng bộc lộ tâm sự của mình. Bị nhà vua bỏ rơi trong toà nhà lộng lẫy, mênh mông, người cung nữ suốt năm canh đứng tủi ngồi sầu, khắc khoải trông ngóng lần lần và chờ mong vô vọng.
Trong' tình cảnh ấy, nàng ý thức sâu sắc về thân phận éo le và nhận biết rất rõ kẻ đã gây ra nỗi bất hạnh cho đời minh. Nàng bị giết chết không phải bằng gươm sắc mà bằng cuộc sống giam hãm, tù túng và tuyệt vọng trong cảnh chăn gối lẻ loi, lạnh lẽo.
Qua lời thở than oán trách của người cung nữ, hình ảnh nhà vua hiện lên đúng là một kẻ bạc tình:
Khoảnh làm chi bấy chúa xuân! 

Chơi hoa cho rữa nhuỵ dần lại thôi.
Khoảnh có nghĩa là chơi khăm, chơi ác. Nỗi cô đơn giày vỏ, giằng xé tâm hổn người cung khiến nàng phải cất lên lời oán trách gay gắt. Nàng nhở lại những ngày đầu được vua sủng ái; còn giờ đây, nàng như bị nhấn chim trong sự hờ hững, lãng quên.
Ở những khổ thơ tiếp theo, tác giả miêu tả khung cảnh xa hoa tráng lệ nơi cung cấm, đối lập với nỗi cô đơn đáng sợ của người cung nữ:
Lầu đãi nguyệt / đứng ngồi dạ vũ,
Gác tựa lương / thức ngủ thu phong.
Phòng tiêu / lạnh ngắt như đồng,
Gương loan / bẻ nửa, dải đổng / xẻ đôi.
Nơi nàng sống thật đẹp đẽ và đáy đủ tiện nghi, nhưng tất cả đều trở nên vô nghĩa, trớ trêu, chỉ gợi thêm nỗi sầu, nỗi thảm trong lòng nàng mà thôi.
Tiếp theo những câu thơ miêu tả nỗi thất vọng nặng nề của người cung nữ là lời thở than, là tiếng kêu đứt ruột. Dù buồn bã hay oán trách, không một cảm xúc nào của nàng ở mức độ bình thường mà tất cả đều gay gắt, mãnh liệt:
Chiều ủ dột giấc mai khuya sớm,
Vẻ bâng khuâng hổn bướm vẩn vơ.
Thâm khuê vắng ngắt nhu tờ,
Của châu gió lọt, rèm ngà sương gieo.
Ngấn phượng liễn chòm rêu lỗ chỗ. Dấu dương xa đám cỏ quanh co.
Lầu Tẩn, chiều nhạt vẻ thu,
Gối loan tuyết đóng, chăn cù giá đông.
Năm khổ thơ tiếp theo miêu tả cuộc đày ải kéo dài với những thất vọng nặng nề trong cảnh ngày ngóng đêm trông, đau đáu chờ đợi nhà vua của người cung nữ. Nỗi sầu có lúc lên dến điểm đỉnh, biến thành tâm trạng u uất, bức bối tưởng như nghẹt thở:
Lạnh lùng thay giấc cô miên,
Mùi hương tịch mịch, bóng đèn thâm u.
Giấc ngủ cô đơn lạnh lùng đáng thương biết mấy! Nón hương đốt lên để cho không khí trong tiêu phòng ấm áp, thơm tho nhưng chỉ đem lại cho người cung nữ cảm giác vắng lặng, tịch mịch. Bóng đèn thắp lên cót để ánh sáng xua bớt bóng'đêm nhưng chỉ gây cho nàng cảm giác thâm u, tăm tối. Cảm giác tịch mịch, thâm u không phải dược tạo ra bởi mùi hương hay bóng đồn mà chính là từ nỗi buồn chán, tuyệt vọng của người cung nữ. Đêm nào nàng cũng chỉ sổng với cái bóng của minh:
Tranh biếng ngắm trong đó tố nữ,
Mặt buồn trông trên cửa nghiễm lâu.
Một mình đứng tủi ngồi sầu,
Đã than với nguyệt lại rầu với hoa!
Đoạn thơ cứ nhắc đi nhắc lại cái bóng dáng cô độc, lủi thủi đáng thương của người cung nữ. Nỗi đau đớn, khắc khoải khiến nàng mệt mỏi, rã rời cả thể xác lẫn tâm hổn. Trong nỗi buồn dai dẳng ấy chứa đựng sự hờn trách, tức tói và uất hận:
Buồn mọi nỗi lòng đà khắc khoải,
Ngán trâm chiểu, bước lại ngẩn ngơ.
Hoa này bướm nỡ thờ 0,
Để gầy bông thắm, đổ xơ nhuỵ vàng.
Lời oán trách không nhẹ nhàng như của người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm: Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ ? mà đay nghiến và hằn học:
Giết nhau chẳng cái lưu cầu,
Giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa!
Cay đắng trước sự thật phũ phàng, người cung nữ đã phải buông lời chỉ chiết: Giết nhau bàng cái u sầu, độc chưa. Câu thơ vừa như một tiếng nghiến răng căm giận, vừa là lời tố cáo đanh thép sự tàn ác của chế độ da thê, chế độ cung tần mĩ nữ tàn bạo thời phong kiến bởi nó đã cướp đi quyền sống tự do, cướp đi hạnh phúc của bao nhiêu cô gái trẻ dẹp. Chúng không giết những người cung nữ bằng dao, bằng kiếm mà bằng cách để cho nỗi cô đơn huỷ hoại tâm hồn và cuộc sống của họ. Người xưa dùng thành ngữ Ễ' giết người không dao (lể chỉ những hành động giết người tinh vi nhất, tàn bạo nhất. Chính những thú ăn chơi trác táng cùng thói vô tinh đến tàn nhẫn của vua chúa
phong kiến đã đẩy hàng ngàn người cung nữ tội nghiệp vào bi kịch "dở sống, dở chết” đó. '
Người phụ nữ trong xã hội xưa thường ít khi trực tiếp thể hiện lòng minh, nhưng nỗi đau xót và sự tủi hờn cao độ đã khiến người cung nữ phải thốt ra tâm sự sâu kín nhất, kể cả ý muốn bứt phá để thoát khỏi cảnh sống giam hãm: đoạ đày. Đang tuổi thanh xuân tràn đầy sức sống mà phải chờ đợi mỏi mòn trong tuyệt vọng nên người cung nữ uất ức cất lời than thở, oán trách. Từ lòng xót thương thực sự, tác giả đã đổng cảm và sẻ chia tâm sự đau đớn ấy. Sức sống dổi dào, khát khao hạnh 

phúc càng mãnh liệt bao nhiêu thì nỗi giận hờn và uất hận càng ngút cao bấy nhiêu trong lòng người cung nữ:
Tay nguyệt lão chẳng xe thì chớ!
Xe thế này có dở dang không ?
Dang tay muốn dứt tơ hổng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra!
Chất trữ tinh trong đoạn trích được tạo nên từ hai cảm xúc trái ngược nhau. Một là cảm xúc buồn chán nặng nể do bị giam hãm lâu ngày trong cảnh tù túng ; hai là cảm xúc khao khát hạnh phúc đời thường không nguôi thôi thúc, ám ảnh. Nỗi chán nản đến mức tuyệt vọng và nỗi khao khát cháy bỏng cộng hưởng tạo thành những làn sóng trữ tinh dào dạt. Người cung nữ dường như đang cố vẫy vùng dể thoát khỏi nỗi cô đơn, nhưng nàng càng cô' gắng thì càng tuyệt vọng. Sợi dây oan nghiệt dã thắt chặt lấy thân phận của người cung nữ như một thứ định mệnh khó bể thoát khỏi.
Bằng ngòi bút miêu tả tâm lí sắc sảo, điêu luyện kết hợp với cách lựa chọn từ ngữ giàu khả năng gợi tả, gợi cảm, tác giả đã thể hiện thành công tâm trạng phức tạp của người cung nữ. Sự đồng cảm chân thành của nhà thơ đã tạo nên giọng điệu réo rắt, sầu khổ oán hờn của đoạn trích nói riêng và cả tác phẩm Cung oán ngâm nói chung.
Nỗi sầu oán của người cung nữ đã cất lên tiếng nói tố cáo chế độ đa thê, chế độ cung tần mĩ nữ tàn bạo của các vua chúa thời phong kiến. Đổng thời, đoạn trích cũng thể hiện tấm lòng nhân đạo cao cả của tác giả, người đã thấu hiểu và đồng cảm sâu sắc với số phận oan nghiệt của những cô gái đầy khát vọng sống nhưng không may bị biến thành trò mua vui cho vua chúa và bất cứ lúc nào cũng có nguy cơ bị vứt bỏ, bị lãng quên trong cung cấm thâm u. Đoạn trích là tiếng nói tha thiết đòi quyển sống, đòi quyển được hạnh phúc của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến ngày xưa.

0