28/05/2017, 15:02

Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân – Văn mẫu lớp 9

Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân – Bài làm 1 Có những tác giả chỉ dành riêng cho một chủ đề, một đối tượng, khi đọc thì không hề lẫn lộn với bất cứ ai hết. Kim Lân là nhà văn như vậy, có lẽ ngòi bút của ông chỉ giành cho người nông dân, ông viết hay về những mảnh ...

Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân – Bài làm 1 Có những tác giả chỉ dành riêng cho một chủ đề, một đối tượng, khi đọc thì không hề lẫn lộn với bất cứ ai hết. Kim Lân là nhà văn như vậy, có lẽ ngòi bút của ông chỉ giành cho người nông dân, ông viết hay về những mảnh đời nghèo đói, bất hạnh nhưng lại có tấm lòng hiền hậu. Nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” ám ảnh người đọc vì sự bình dị ...

Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân – Bài làm 1

Có những tác giả chỉ dành riêng cho một chủ đề, một đối tượng, khi đọc thì không hề lẫn lộn với bất cứ ai hết. Kim Lân là nhà văn như vậy, có lẽ ngòi bút của ông chỉ giành cho người nông dân, ông viết hay về những mảnh đời nghèo đói, bất hạnh nhưng lại có tấm lòng hiền hậu. Nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” ám ảnh người đọc vì sự bình dị và tấm lòng yêu quê hương, đất nước.

Ông Hai là người nông dân rời làng đi tản cư, nhưng trong lòng ông vẫn đau đáu nhớ thương về quê hương và hết lòng ca ngợi mảnh đất từng gắn bó. Có lẽ người đọc sẽ rơi nước mắt khi thấy được những dằn vặt trong lòng ông Hai qua từng giai đoạn.

Ông Hai được Kim Lân xây dựng bằng thứ ngôn ngữ bình dị, gần gũi và chân chất nhất. Ông Hai hiện lên trên trang viết của Kim Lân là người yêu quê hương, tự hào về quê hương. Dù rời làng đi tản cư nhưng ông Hai luôn mang theo tình yêu ấy đi kể với mọi người. Ông khoe với mọi người làng của ông đẹp lắm, giàu có lắm, đậm tình người lắm “làng mình nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh; nào là đường làng toàn lát đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối làng không hề lấm gót, ngày mùa phơi thóc phơi rơm thì tốt thượng hạng”.

Qua lời kể của ông Hai thì làng quê của ông rất đẹp, rất trù phú, hơn hẳn những ngôi làng khác. Lòng tự hào, vui tươi qua từng lời kể về quê hương khiến người đọc hình dung được tình yêu mãnh liệt, tha thiết của một người con xa quê đối với nơi đã từng gắn bó rất lâu.

Nơi mà ông luôn nhớ về là làng Chợ Dầu, kiên cường trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Tác giả đã tạo tình huống truyện đi tản cư của ông Hai để khắc họa diễn biến cũng như tính cách nhân vật qua từng giai đoạn. Ông buộc phải rời bỏ quê nhà đến một nơi khác để sinh sống, và ông vẫn luôn dõi theo từng bước đổi thay của làng Chợ Dầu.

Nỗi nhớ về làng quê trong ông cứ chồng chất qua từng ngày, ông cứ nhớ và cứ kể về mảnh đất ấy với niềm say sưa bất tận.

Có lẽ sự dằn vặt, trăn trở trong những ngày tháng tản cư của ông Hai khiến người đọc phải thổn thức. Ông đã phải đấu tranh tư tưởng để có thể rời xa làng, rời xa nơi sinh ra và lớn lên.

Nhưng có lẽ diễn biến tâm trạng của ông được diễn tả chân thực và sâu sắc qua đoạn nghe tin làng chợ Dầu theo Tây. Ông không tin, không cho rằng đó là sai sự thật, vì làng chợ Dầu của ông vẫn luôn kiên cường đối với khánh chiến.

Ông Hai đau đớn khi biết tin làng mình theo Tây, bỏ cách mạng, bỏ những năm tháng sống gắn bó với nhau. Những ngày này, ông “nằm vật ra, đau đớn, sợ người ta để ý, bàn tán về việc làng chợ Dầu theo giặc”. Nỗi niềm này của ông Hai được Kim Lân diễn tả rất thành công, chân thực và rõ nét nhất.

Sự căm phẫn, đau đớn ấy đã được đẩy lên cao“Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Có lẽ đây là lần đầu tiên ông không kiềm chế được cảm xúc mà nói ra những lời nặng nề nhưng đầy đau đớn như vậy.

Có những những ngày tháng này là những ngày tháng tối tăm nhất trong cuộc đời của ông Hai. Mặc dù yêu làng, yêu quê hương nhưng khi nghe tin quê hương bán nước ông lại vừa đau đớn, vừa căm phẫn đến cực độ.

Đến khi nhận được tin báo làng chợ Dầu vẫn kiên cường chống địch thì ông bỗng nhiên vui tươi và phấn khởi. Sự thay đổi tâm lý, tình cảm đột ngột như vậy đã chứng tỏ được tình yêu nước của ông mãnh liệt như thế nào. Ông lại bắt đầu khoe làng chợ Dầu đã phải tự đốt làng mình như thế nào. Hơn hết chi tiết ông khoe “Chúng nó đốt nhà tôi rồi chú ạ” đã diễn tả được tâm sự của ông trong thời gian qua. Ông chỉ mong ông trong sạch và làng mình trong sạch, như thế là đã đủ rồi.

Ông vui mừng vì dân làng chợ Dầu dù có bị đốt làng nhưng vẫn kiên quyết giữ làng, không hề bán nước.

Như vậy, bằng ngòi bút chân thực, giản dị Kim Lân đã vẽ lên trước mắt người đọc hình ảnh người nông dân tiêu biểu cho tình yêu làng, yêu nước như ông Hai. Qua đó khẳng định được tình yêu luôn chiến thắng tất cả. Dù chiến tranh ác liệt thì chỉ cần có tình yêu và kiên trì nhất định sẽ giành thành công.

Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân – Bài làm 2

Kim Lân là một nhà văn có sở trường khi viết về đề tài nông thôn, nông dân. Ở ông có sự gắn bó mật thiết với cuộc sống nông thôn, am hiểu tâm lí của những người nông dân, kết hợp với sự tinh tế, nhạy cảm của một nhà văn tài năng đã làm cho ngòi bút của Kim Lân trở nên chân thực, sống động, tái hiện được sâu sắc những hiện thực của đời sống. Trong các sáng tác của mình ông có sự biến hóa đa dạng về nhân vật, tính cách, tình huống, một trong số những tác phẩm tiêu biểu không thể không kể đến của Kim Lân đó chính là truyện ngắn Làng, câu chuyện xoay quanh nhân vật chính, đó chính là ông Hai.

Ông Hai là người dân làng chợ Dầu, vì hoàn cảnh nên ông phải sống ngụ cư ở nơi đất khách. Tuy xa quê nhưng ông Hai chưa một lần thôi nhớ về quê hương, tình cảm dành cho quê hương của ông mãnh liệt đến mức không kiềm nén nổi mà có xu hướng bộc lộ ra bên ngoài. Cụ thể là khi gặp những người hàng xóm, ông thường kể về làng chợ Dầu của mình, từ những chi tiết nhỏ của làng cũng được ông kể đầy say mê, hồ hởi. Đây chính là tình yêu của ông dành cho nơi “chôn nhau cắt rốn của mình”, chỉ vì bất đắc dĩ nên ông mới phải rời làng đến nơi khác làm ăn, sinh sống như vậy. Nhưng cái gì quá cũng không tốt, ông hay kể về làng, kể về những thứ tốt đẹp của làng mình, gặp ai cũng kể nên trở thành sự khoe khoang đối với cảm nhận của nhiều người.

Tuy nhiên, tình yêu quê hương của ông được đặt trong một tình huống vô cùng éo le, trái khoáy khi ông Hai nghe tin làng chợ Dầu theo theo giặc, đó thực sự là một tin quá sức bất ngờ đối với ông, sự bất ngờ kèm theo đau đớn, chua sót. Làng chợ Dầu vốn là tình yêu, niềm tin bất diệt trong ông mà giờ đây niềm tin ấy, tình yêu ấy dường như đã quay lưng lại, phản bội lại ông một “vố” đau đớn. Ông bàng hoàng, không dám tin vào , nhưng dẫu vậy cổ họng ông vẫn nghẹn đắng, da mặt tê rần rần, trên suốt quãng đường trở về nhà ông không dám ngẩng mặt lên nhìn ai, vì xấu hổ, vì nhục nhã. Ông lặng lẽ đi về nhà rồi nằm vật ra giường, nước mắt giàn giụa, đó chính là những giọt nước mắt đau khổ, những giọt nước mắt tuyệt vọng.

Từ khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc, ông Hai không dám đi ra ngoài nhiều, nhìn thấy những đám người tụm năm, tụm ba đang bàn bạc gì đó thì ông lại cho rằng đang nói về việc làng chợ Dầu theo giặc, ông bắt đầu lo sợ sự khinh bỉ, hăt hủi của mọi người, sợ không ai dám chứa dân làng chợ Dầu nữa, nư thế thì những đứa trẻ phải làm sao, gia đình ông sẽ phải sống như thế nào. Đã có lúc vì quá phẫn uất mà ông đã cất tiếng chửi: “..chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống việt gian bán nước nhục nhã như thế này”. Có thể nói đây là lần đầu tiên ông cất tiếng chửi làng chợ Dầu, lần đầu tiên ông thất vọng, buồn tủi vì nó, tình yêu của ông dành cho làng chợ Dầu không hề thay đổi, dù xa quê nên khi nghe làng làm việt gian ông mới khổ tâm như vậy.

Ông Hai trải qua một cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội hơn, đó là làng chợ Dầu theo giặc rồi, ông sẽ theo làng chợ Dầu hay theo cách mạng. Dù lo sợ nay mai sẽ không ai chứa bố con ông, rồi bố con ông sẽ bị hắt hủi, tẩy chay nhưng ông cũng quyết không chịu về làng chợ Dầu, vì làng chợ Dầu đã theo giặc, mà ông tuy yêu quê hương mình nhưng ông cũng không thể phản bội lại Cách mạng, bởi ông tin vào cụ Hồ, tin vào khả năng lãnh đạo, dẫn dắt cách mạng của cụ Hồ, chính vì vậy mà ông đã dãi bày những lời nói xuất phát từ tim gan của mình: “ Cụ Hồ trên đầu, trên cổ xét soi cho bố con ông. Cái lòng của bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai, chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”. Như vậy, ở ông Hai chỉ không có tình yêu tha thiết dành cho làng chợ Dầu của mình mà ông còn là một người tuyệt đối trung thành với cách mạng, với cụ Hồ. Khi buộc phải lựa chọn, ông vẫn đặt lợi ích của đất nước lên trên tình yêu cá nhân của ông.

Khi nghe tin làn chợ Dầu không phải là Việt gian bán nước, ông đã vui sướng, cái niềm vui mà không từ ngữ nào có thể diễn tả được. Ông không chỉ mua quà cho lũ trẻ mà còn lăng xăng chạy từ đầu xóm đến cuối xóm để khoe cái tin tức hay ho này, ông phải đính chính lại cho tất cả mọi người biết, rằng làng chợ Dầu của ông không theo giặc, niềm vui sướng, hành động của ông như một đứa con nít được cho quà, thế ta mới hiểu với ông Hai thì làng chợ Dầu có ý nghĩa to lớn như thế nào. Nhà ông bị đốt nhưng ông lại đi khoe với dáng vẻ hồ hởi đầy vui sướng “Tây nó đốt nhà tôi rồi. Đốt nhẵn”. Vì không biết chữ, lại không biết cách nói nên những lời thanh minh cho làng chợ dầu của ông thật hài hước “Toàn là sai sự mục đích cả”.

Truyện ngắn “làng” của Kim Lân là tác phẩm truyện ngắn viết về tình yêu quê hương, đất nước của người dân Việt Nam, tình yêu ấy không phải chỉ là những lời nói sáo rỗng mà nó được bộc lộ qua những tình huống cụ thể, đó là tin ngôi làng yêu dấu của mình theo giặc, dù yêu làng nhưng ông Hai nhất quyết không chịu làm Việt gian bán nước, ông một lòng tin tưởng, đi theo cụ Hồ. Đó là người nông dân Việt Nam hiền lành, chân chất, giàu lòng yêu quê hương, tổ quốc những hoàn cảnh éo le nhất, nếu phải lựa chọn thì họ vẫn lựa chọn theo cách mạng,gác lại tình cảm cá nhân, đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu.

Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân – Bài làm 3

Nếu như trước Cách mạng Tháng Tám, Ngô Tất Tố mang tới một chị Dậu với sức sống mãnh liệt của người nông dân, Nam Cao mang tới một Lão Hạc đầy lòng tự trọng và tình yêu thương con vô bờ bến,… thì sau Cách mạng Tháng Tám, Kim Lân – nhà văn nông dân – mang tới cho bạn đọc hình ảnh người nông dân thời kì đổi mới. Đó chính là nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” với tình yêu làng quê và lòng yêu nước sâu đậm, tha thiết.

Sinh ra và lớn lên nơi làng quê Việt Nam, giữa những người nông dân chất phác, nhà văn Kim Lân đã sớm gắn bó và am hiểu sâu sắc về cuộc sống ở nông thôn, sáng tác nhiều tác phẩm về đề tài này. Trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, khi người dân miền Bắc được lệnh tản cư, ông lại một lần nữa khắc họa hình ảnh người nông dân trong truyện ngắn “Làng”, không phải trong những vấn đề thường nhật, mà về tình yêu làng quê và đất nước của những con người chân lấm tay bùn ấy. Tác phẩm được đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ năm 1948, đánh dâu bước chuyển biến tích cực trong hình tượng người nông dân và nhân thức của họ, đặc biệt qua nhân vật ông Hai.

Nét tính cách đầu tiên và dễ nhận thấy nhất ở ông Hai là tình yêu tha thiết đối với làng ông. Đối với người nông dân, làng không chỉ là một đơn vị hành chính, địa lí. Ở đó chứa đựng cuộc sống của họ, tất cả những gì gần gũi và thân thuộc với họ. Làng chính là quê hương, là cuộc đời họ. Ông Hai cũng vậy, ông có tính hay khoe làng với tất cả niềm hãnh diện. “Ông nói về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai mắt ông sáng hẳn lên, khuôn mặt biến chuyển hoạt động.” Tình yêu làng đã biến ông Hai thành một con người hoàn toàn khác so với một ông Hai bị gò bó, tù túng trong căn bếp tản cư. Một nguồn sinh lực mới như dồi dào trong ông lúc đó. Tối này đến tối khác, ông nói đi nói lại về cái làng của ông. Kim Lân điểm nhịp câu chuyện bằng những lời trách móc ông hàng xóm nhãng ý không nghe chuyện, nhưng kỳ thực là để cho ta thấy rằng ông Hai không thực sự cần bác Thứ nghe, ông nói cho chính mình, nói để cho sướng miệng và cũng để thỏa nỗi nhớ làng. “Ông lại nghĩ về cái làng của ông, lại nghĩ đến những ngày cùng làm việc với anh em. […] Ông lại muốn về làng, lại muốn được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá.” Những ký ức về làng xưa, xóm cũ trở thành niềm an ủi, động viên ông Hai mỗi khi chán nản. Chỉ cần được ở lại làng, cùng chiến đấu với anh em thì như có một luồng sinh lực mới chảy dồi dào trong ông, và dù có gian khổ, khó nhọc, nguy hiểm đến bao nhiêu ông cũng chịu được. Hình ảnh đó hoàn toàn trái ngược với ông Hai lúc nào cũng buồn chán, bức bối, không biết làm gì trong căn bếp tản cư. Thế nhưng đó cũng chỉ là hồi ức, một hồi ức tươi vui và đầy tự hào đến nỗi mỗi khi nhớ lại, trong ông lại trào dâng một nỗi nhớ khôn nguôi : “Ông Hai nhớ cái làng, nhớ cái làng quá.” Với ông, ngôi làng của ông vốn đã là một điều gì đó vô cùng thiêng liêng và đẹp đẽ. Nay ở trong căn bếp tản cư chật hẹp, cái làng ấy lại càng đẹp hơn, trở thành một niềm mong ước, khao khát mãnh liệt. Điều đó hoàn toàn không phải phóng đại. Tâm sự của ông Hai là tâm sự của một người gắn bó với làng tha thiết, yêu làng bằng một niềm tự hào chân chính.

Tình yêu làng của ông Hai được thể hiện nổi bật và đậm nét nhất khi ông nghe tin làng ông theo Tây. Như xét đánh ngang tai, ông từ chối tin vào điều đó. “Cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng chừng như không thở được. Một lúc sau ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ.” Nếu như tin dữ ấy là cái làng đẹp đẽ của ông bị đốt trụi, nhà cửa, ruộng vườn của ông bị cướp mất thì có lẽ ông cũng không đau khổ bằng tin làng mình theo Tây. Tội nghiệp ông lão vui tính, xởi lởi giờ đây phải “cúi gằm mặt đi thẳng”, “nước mắt ông cứ giàn ra”. Giá ông không quá yêu làng, không quá tự hào về làng thì ông đã không thấy tủi nhục đến thế. Mấy chữ “cả làng chúng nó Việt gian theo Tây” như găm vào trái tim ông, vào niềm tự hào về cái làng mà ông yêu vô cùng. Tất cả những gì ông trân trọng giữ gìn trong tim giờ đây như đều sụp đổ tan tành. Ông không chấp nhận được sự thật ấy và đấu tranh nội tâm dữ dội. Lúc đầu là nghi ngại (“Nhưng sao lại nảy ra cái tin như vậy được ?“), nhưng sau đó là đau đớn khi được biết những bằng chứng rõ ràng (“Mà thằng chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi“). Phải thừa nhận cái tin đó, không thể nào tả được nỗi đau của ông lúc ấy. “Chao ôi ! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian !” Có lẽ trong đời mình, ông Hai chưa từng chịu đựng hay thậm chí tưởng tượng được một nỗi đau, nỗi nhục như thế. Những tiếng ấy như thốt lên từ trái tim bị tổn thương, từ niềm tự hào bị chà đạp của ông, khiến người đọc cũng như cảm nhận được nỗi xót xa, tủi nhục của ông lúc ấy. Mà ông Hai đâu chỉ đau cho mình, đau cho làng, mà ông còn đau cho những người đồng hương, đồng cảnh ngộ. “Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa ?” Có thể những con người ấy trước kia có hiềm khích với ông, nhưng trước nỗi đau, nỗi nhục quá lớn này, tình yêu làng trỗi lên thật mạnh mẽ và đánh thức tình đồng hương trong ông. Kim Lân đã rất tài tình khi sử dụng hàng loạt câu cảm, câu hỏi liên tiếp trong nghệ thuật độc thoại nội tâm để lột tả sự đau khổ, xót xa, uất ức mà ông Hai phải chịu đựng. Lúc này đây, làng không chỉ là nơi chôn rau cắt rốn nữa, mà là một cái gì đó lớn lao hơn, là lòng tự trọng, là danh dự.

Không chỉ thế, tình yêu làng còn trở thành một nỗi ám ảnh day dứt trong ông, buộc ông phải lựa chọn giữa làng và nước. Nếu lúc trước ông tự hào, ông thao thao bất tuyệt về làng mình bao nhiêu thì bây giờ ông xấu hổ, trốn tránh bất nhiêu. Cái tin đồn quái ác kia trở thành một nỗi ám ảnh, một nỗi sợ vô hình luôn đè nặng lên tâm trí ông. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông… là ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi !” Lẽ thường tình, khi người ta suy nghĩ quá nhiều về một điều gì đó, lúc nào ta cũng có cảm tưởng những người khác cũng như vậy. Thế thì nỗi ám ảnh và lo sợ của ông Hai phải lớn đến chừng nào để ông bị dằn vặt tới vậy ! Lòng yêu làng của ông phải lớn biết chừng nào ! Kim Lân đã diễn tả rất cụ thể và sâu sắc tâm trạng nặng nề ấy, vì bản thân tác giả cũng từng gặp hoàn cảnh tương tự. Ông Hai đã trải qua những giờ phút không thể đau đớn và tủi hổ hơn khi bị mụ chủ nhà nói móc nói máy để đuổi khéo. Người đọc như cảm nhận được từng lời từng chữ của mụ như xoáy sâu vào tình yêu làng vốn đã quá tổn thương của ông. Dù đã dứt khoát đi theo kháng chiến, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm sâu đậm với làng quê, và vì thế mà ông càng đau xót, tủi hổ hơn.

Bên cạnh tình yêu làng, nhân vật ông Hai còn ghi dấu trong mắt người đọc bằng lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến. Ông luôn theo sát tin tức kháng chiến và tự hào về những chiến công mà nhân dân ta đã lập nên. “Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá !” Nhưng đến khi phải lựa chọn giữa làng và nước, tình yêu ấy mới bộc lộ rõ rệt. Dù bị tin đồn làng mình theo Tây dồn vào “tuyệt đường sinh sống”, ông vẫn nhất quyết không trở về làng. Đến đây, ta mới hiểu rõ về con người hay chuyện tưởng chừng rất đơn giản, bộc trực kia. Tình yêu làng giờ đây đã trở thành tình yêu có ý thức, hòa nhập và lòng yêu nước. “Về làm gì cái làng ấy nữa. Về làng là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ.” Nhớ lại những tháng ngày đen tối bị đàn áp xưa kia, ông đã có quyết định rõ ràng, đúng đắn. Là người nông dân chân lấm tay bùn nhưng ông Hai có nhân thức cách mạng rõ ràng : “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.” Nhận thức rất mới này là một nét đặc biệt trong tính cách của ông Hai, đánh dấu sự thay đổi của người nông dân sau Cách mạng Tháng Tám. Ông luôn luôn muốn được giãi bày nỗi lòng ấy của mình. Tuy nói chuyện với đứa con, nhưng thực chất ông đang mượn lời đứa trẻ để bày tỏ tâm sự. Những gì đứa trẻ nói chính là những gì đang dâng trào trong lòng ông mà không nói ra được. “Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ.” Ông Hai nói với đứa con như thể nói với anh em đồng chí, để minh oan cho tấm lòng thành thật của mình, để nỗi khổ tâm trong lòng như vơi đi được đôi phần. Lòng yêu nước của ông thật giản dị nhưng vô cùng chân thành, sâu sắc và cảm động. Chính điều ấy đã giúp ông chịu đựng được tin đồn quái ác về làng mình, vì ông có niềm tin vào cách mạng, vào kháng chiến. Từ đây, ông Hai nói riêng hay người nông dân nói chung, đã nhìn rộng hơn, xa hơn lũy tre làng. Không chỉ yêu làng, trong ông còn có một tình yêu lớn gấp nhiều lần – lòng yêu nước.

Đến khi tin làng chợ Dầu theo giặc được cải chính, tình yêu làng, yêu nước của ông Hai mới được vẽ lên hoàn chỉnh. Ông Hai như sống lại. “Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên.” Một lần nữa, tình yêu làng, yêu nước của ông được thể hiện một cách chân thực, cảm động. Nguồn sinh lực ngày nào lại trở về trong ông. Ông Hai lại là ông Hai xưa. Ông lại nói về làng mình, về “Tây nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn !” Niềm vui sướng của ông được thể hiện thật hồn nhiên, chân thật và rất mãnh liệt. Có lẽ không ai trên đời lại đi khoe, đi mừng việc nhà mình bị đốt như thế. Nhưng với ông Hai, điều đó đâu có là gì so với niềm vui khi thanh danh của làng được rửa. Vì sự mất mát ấy cũng là sự hồi sinh của một làng Chợ Dầu mà ông hằng yêu và xứng đáng với tình yêu ấy : làng Chợ Dầu kháng chiến. Tình yêu làng là cơ sở, là biểu hiện hùng hồn nhất của tình yêu nước trong ông Hai. Quả đúng như nhà văn I-li-a Ê-ren-bua đã từng nói : “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê làm nên lòng yêu tổ quốc.” Nếu so với lão Hạc của Nam Cao hay chị Dậu của Ngô Tất Tố trước Cách mạng tháng Tám – những người nông dân cả cuộc đời đầu tắt mặt tối trong ruộng vườn thì nhân vật ông Hai đã có nhận thức rõ ràng về cách mạng, về kháng chiến. Ông đã nhận ra rằng : Đất nước còn thì làng còn, đất nước mất thì làng cũng mất. Đây không chỉ là sự thay đổi trong suy nghĩ người nông dân, mà còn là suy nghĩ của mỗi người dân Việt Nam thời điểm đó. Họ sẵn sàng hy sinh những cái riêng, những cái nhỏ vì sự nghiệp chung, vì cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Họ không hề quên đi cội nguồn của mình mà gìn giữ nơi ấy ở trong tim, biến thành động lực chiến đấu để giải phóng đất nước, giải phóng quê hương.

Truyện ngắn “Làng” đã xây dựng thành công nhân vật ông Hai, đặc biệt qua tình huống làng Chợ Dầu bị đồn là theo Tây. Nguyễn Minh Châu từng nói : “Tình huống là một loại sự kiện đặc biệt của đời sống, được sáng tạo ra theo hướng lạ hóa. Tại đó, vẻ đẹp nhân vật hiên ra sắc nét, ý nghĩa tư tưởng phát lộ toàn diện.” Kim Lân đã sáng tạo được một tình huống truyện có tính căng thẳng để thử thách nhân vật. Nó đã cho ta thấy chiều sâu của nhân vật ông Hai, những nét tính cách, những chuyển biến trong nhận thức và tính cảm của ông, và hơn hết là tình yêu làng, yêu nước tha thiết. Nhà văn cũng vô cùng thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, khi thì miêu tả cử chỉ hành động, khi thì độc thoại nội tâm, độc thoại, đối thoại để lột tả tính cách nhân vật. Ngôn ngữ kể chuyện rất linh hoạt, tự nhiên, lúc dềnh dàng, lúc đột ngột tùy theo diễn biến. Bên cạnh đó, tác giả vốn am hiểu cuộc sống nông thôn nên ngôn ngữ của ông Hai là khẩu ngữ, rất bình dị và gần gũi, đậm chất nông dân. Với nhân vật ông Hai, Kim Lân quả thực rất xứng đáng là một cây bút “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”.

Nguyễn Đình Thi từng viết rằng : “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh.” Truyện ngắn “Làng” đã được viết nên từ những điều nhà văn từng trải nghiệm, khắc họa một cách chân thực nhất những tháng ngày đi tản cư của nhân dân miền Bắc trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, cũng như những chuyển biến trong nhận thức và tình cảm của họ.. Thông qua nghệ thuật xây dựng tình huống truyện và miêu tả tâm lí, ngôn ngữ nhân vật, Kim Lân đã mang đến cho bạn đọc nhân vật ông Hai với tình yêu làng quê và lòng yêu nước sâu đậm, thiết tha.

Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân – Bài làm 4

Truyện ngắn Làng của Kim Lân đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng khó quên về nhân vật ông Hai, một nông dân yêu mến, gắn bó với quê hương bằng một tình cảm thiết tha, sâu nặng.

Ông Hai có một tình yêu làng quê thật mãnh liệt. Mỗi khi nói đến cái làng Chợ Dầu quê ông nổi tiếng khắp vùng Kinh Bắc, ông đều kể bằng giọng say mê náo nức lạ thường. Nào là làng mình nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh; nào là đường làng toàn lát đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối làng không hề lấm gót, ngày mùa phơi thóc phơi rơm thì tốt thượng hạng… Yêu mến, hãnh diện về làng mình, nên ông Hai mắc tật hay khoe. Theo ông thì cái gì của làng Chợ Dầu quê ông cũng hơn hẳn thiên hạ.

Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, cuộc sống của gia đình ông Hai có nhiều thay đổi, duy niềm tự hào về làng Chợ Dầu dường như vẫn y nguyên. Ở nơi tản cư, ông hay kể cho mọi người nghe về làng mình với những hố, những ụ chống càn, những giao thông hào chằng chịt như mạng nhện, những cụ phụ lão râu tóc bạc phơ vẫn tập đi một, hai, một, hai… Làng ông có chòi phát thanh cao nhất vùng, có nhà thông tin rộng rãi sáng sủa nhất vùng… Ông Hai rất kiêu hãnh về phong trào kháng chiến sôi nổi của làng Chợ Dầu. Ông đã tích cực cùng mọi người đào đường đắp luỹ, rào làng kháng chiến, góp phần vào những thành tích đáng tự hào của quê hương.

Tình yêu làng của ông Hai được thể hiện một cách cảm động trong những ngày buộc phải tản cư. Mọi niềm vui, nỗi khổ của ông gắn liền với vận mệnh của làng Chợ Dầu kháng chiến. Nghe tin đồn dân làng Chợ Dầu làm Việt gian theo Tây, ông Hai vô cùng đau khổ: Cổ ông nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân răn, ông lão lặng đi tưởng như không thở được.

Ông cảm thấy đau đớn vì làng Chợ Dầu yêu quý của ông đã rời bỏ Cách mạng. Không chịu nổi sự nhục nhã, ông vờ đứng lảng ra chỗ khác rồi cúi gằm mặt xuống mà đi. Về đến nhà, ông nằm vật ra giường, nước mắt cứ giàn ra. Đau đớn, xấu hổ, ông Hai lúc nào cũng nơm nớp lo sợ người ta để ý, bàn tán về dân làng Chợ Dầu theo giặc. Có lúc uất quá, ông nắm chặt tay, nghiến răng nguyền rủa: Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này! Có lẽ đây là lần đầu tiên ông Hai oán giận làng mình. Không thể san sẻ với người ngoài, ông chỉ còn biết tâm sự với những đứa con cho vơi nỗi đau.

Nhưng rồi nỗi đau khổ, nhục nhã đã được thay thế bằng niềm vui sướng, hân hoan. Ông Hai báo với mọi người cái tin làng ông bị giặc phá, nhà ông bị giặc đốt: Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn… cái tin làng Chợ Dầu chúng em Việt gian ấy mà. Ra láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả! Ông Hai mừng rỡ vì dân làng Chợ Dầu vẫn trung thành với kháng chiến. Làng Chợ Dầu vẫn xứng đáng với niềm tự hào của ông Hai. Không nén nổi cảm xúc, ông Hai múa tay lên mà khoe. Mọi nỗi khổ, niềm vui của ông không bó hẹp trong sự bình yên của bản thân và gia đình mà tất cả đều vì làng Chợ Dầu quê hương ông.

Mỗi người Việt Nam đều yêu thương, gắn bó với quê hương mình. Đó là nơi tổ tiên ông cha sinh cơ lập nghiệp đã bao đời. Đó là nơi chôn rau cắt rốn, nơi có những người thân yêu đang cần cù làm lụng một nắng hai sương. Vì vậy, lòng yêu mến làng quê đã trở thành tình cảm truyền thống của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là người nông dân Việt Nam. Yêu làng cũng là yêu nước. Ông Hai đã buồn vui, sướng khổ, đã kiêu hãnh, tự hào vì làng Chợ Dầu quê hương ông. Đó chính là vẻ đẹp mới trong tâm hồn người nông dân thời kháng chiến chống Pháp đã được nhà văn Kim Lân khám phá và thể hiện.

Từ khóa từ Google

0