Phân tích nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
Đánh giá bài viết Nội dung bài viết1 Phân tích nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Bài làm 1 2 Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Bài làm 2 3 Phân tích nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Bài ...
Đánh giá bài viết Nội dung bài viết1 Phân tích nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Bài làm 1 2 Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Bài làm 2 3 Phân tích nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Bài làm 3 4 Phân tích nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Bài làm 4 Phân ...
Nội dung bài viết
– Bài làm 1
Vợ chồng A Phủ là truyên thành công nhất trong tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài. Trong truyện này, nhân vật Mỵ có hồn hơn cả. Mị có hai mặt tưởng như đối lập nhưng thực ra lại rất thống nhất. Mặt thứ nhất là Mỵ bị chà đạp nặng nề đã sinh ra buồn rầu và dần dần sinh ra cam chịu, mất cả sức sống. Mặt thứ hai là ngay trong tình trạng đó, Mỵ vẫn cựa quậy, vẫn tiềm tàng, tiềm ẩn một sức sống để từ đó bước vươn dậy và cuối cùng phá cũi tháo lồng và tìm lại được lẽ sống cho mình.
Mị bị bắt làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá-Tra là tấn bi kịch đau đớn nhất trong cuộc đời nàng. A Sử đối với nàng như đối với một người nô lệ. Nhưng vì nàng là ngươi con gái giàu tình thương, có đức hi sinh nên nàng đành cam chịu để trừ nợ cho cha. Ở lâu trong cái khổ, Mỵ quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu con ngựa. Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào công việc cả đêm cả ngày . Quá đau khổ, nàng đã phản kháng bỏ nhà Pá Tra trở về. Nàng định lạy cha rồi ăn lá ngón chết. Nhưng khi nghe cha nói: Mày về lạy tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ Không được con ơi!. Mị bưng mặt khóc, ném nắm lá ngón rồi trở về nhà Pá Tra. Vì quá thương cha mà nàng đành cam chịu cuộc sống nô lệ ở nhà thống lí.
Nhưng trong tâm trạng, trong bản chất cuộc sống của Mị tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt. Trong nỗi buồn, trong suy nghĩ, trong ý muốn tự tử của nàng đã biểu lộ tinh thần không muốn cam chịu, không muốn chấp nhận cuộc sống lầm than, tủi cực hiện tại. Sức sống bị đè nén chỉ cần có cơ hội là nó sẽ bộc phát. Những đêm tình mùa xuân đã tới, tâm hồn Mị bị xáo trộn. Nàng đã lắng nghe tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, tha thiết bổi hổi. Mị ngồi nhẩm bài hát của người đang thổi:
Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gá
Ta đi tìm người yêu
Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy hồi tưởng lại ngày trước. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Mùa xuân, Mị uống rượu trên bếp và thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác. Sức sống lại dạt dào trong lòng nàng. Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng độy nhiên vui sướng như đêm tết ngày trước. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi. Tiếng sáo còn rập rờn trong đầu Mị, Mị quấn lại tóc, Mị mặc váy hoa. Ai bảo cô Mị chỉ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa? Dĩ nhiên tuổi xuân của nàng đã bị tàn phá. Sức sống của nàng đã bị đè nén. A Sử trói Mị lại, quấn tóc lên cột. Đóng cửa buồng rồi bỏ đi. Thật là tàn bạo, Mị vẫn đứng im như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi.
Em không yêu, quả pao rơi rồi
Em yêu người nào, em bắt pao nào
Mị vùng vằng bước đi nhưng toàn thân đau nhức không cựa được. Sức sống tiềm tàng trong người Mị bộc phát thật là dữ dội.
Sức sống tiềm ẩn của Mị bộc lộ tột đỉnh trong hành vi nổi loạn giải thoát cho A Phủ và cho chính mình. A Phủ là người ở trừ nợ (vì đánh A Sử nên bị phạt vạ) trong nhà thống lí. A Phủ chăn bò bị hổ ăn mất một con. A Phủ bị trói. Đêm đêm, Mị dậy sưởi lửa thấy mắt A Phủ trừng trừng, biết A Phủ còn sống, Mị vẫn lạnh lùng vì đời Mị khổ quá, Mị chỉ còn ở với ngọn lửa. Có đêm A Sử thấy Mị ở đây đã đập Mị ngã xuống cửa bếp nhưng trái tim của cô gái giàu yêu thương ấy lại thổn thức. Đêm khuya Mị trở dậy thổi lửa, ngọn lửa bập bùng sáng lên. Cách miêu tả sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy trong lòng Mị bằng ngọn lửa bập bùng sáng lên thật là hay! Nàng nhìn thấy A Phủ bị trói đứng, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai lõm má đã sạm đen lại. Mị nhớ lại đêm A Sử trói Mị, nàng thốt lên trong lòng Trời ơi! Nó bắt trói đứng người ta đến chết! Nó đã trói chết một người đàn bà trong nhà ngày trước cũng ở chỗ này. Nàng nghĩ đêm mai là người kia chết. Người kia việc gì mà phải chết. Rồi nàng vận vào mình, biết đâu A Phủ trốn thoát, bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị cởi trói cho nó. Mị phải trói thay vào đó, Mị phải chết trên cái cọc ấy, Mị không thấy sợ. Đấy chỉ là những tư tưởng nổi loạn trong lòng Mị và từ tư tưởng nổi loạn đến hành động nổi loạn chỉ có một li. Mị đã rón rén bước lại gần A Phủ. Nàng rút con dao nhỏ cắt lúa cắt nút dây mây trói A Phủ. Mị thì thào: Đi ngay !. Mị cắt sợi dây trói A Phủ cũng chính là nàng đã cắt sợi dây vô hình trói nàng vào gia đình thống lí Pá Tra. Nàng đã chạy theo A Phủ, A Phủ nói: Đi với tôi và hai người lẳng lặng đỡ nhau chạy xuống dốc núi. Hình ảnh đó nói lên sự can đảm liều lĩnh của Mị. Hành động táo bạo này có ý nghĩa quyết định trong cuộc đời Mị. Mị và A Phủ đã nương tựa vào nhau và thành vợ chồng A Phủ để xây dựng cuộc đời mới. Hành động giải thoát của Mị có xen lẫn ý thức tự phát và tự giác. Có lẽ ý thức tự phát mạnh hơn. Đó chính là kết quả biểu lộ tất yếu của một sức sống vốn đã tiềm tàng, tiềm ẩn của Mị trước đó. Hành động giải phóng và tự giải phóng này của Mị có nguồn gốc từ cái buồn rười rượi, từ cái cách uống ừng ực từng bát rượu và ngay cả ý định muốn tự sát của Mị.
Nguồn gốc sâu xa của hành vi đó là ở tấm lòng giàu tình cảm, giàu lòng thương người của Mị, còn nguyên do trực tiếp là tiếng sáo của những đêm tình mùa xuân đã thức dậy trong tâm hồn nàng lòng yêu đời, niềm tha thiết với cuộc sống tự do.
Có thể nói sức sống tiềm tàng của Mị là sức hấp dẫn của nhân vật này trong thời gian Mị ở Hồng Ngài. Tô Hoài đã đặt Mị trong mối xung đột xã hội gay gắt, những thế lực tàn bạo của xã hội phong kiến thống trị cũa người H-mông đã chà đạp lên số phận của nàng, tưởng như nàng không còn con đường nào thoát khỏi sự huỷ diệt. Vậy mà chính sức sống tiềm ẩn của nàng đã tự cứu nàng. Tô Hoài đã miêu tả một cách xuất sắc sự vận động nội tâm của nhân vật và dẫn đến hành động phản kháng tháo cũi phá lồng giải thoát. Chính sức sống mãnh liệt của Mị khi gặp ánh sáng cách mạng thì như hạt giống tốt gieo lên mảnh đất phù sa. Mị đã trở thành nhân tố tích cực trong đội du kích Phiềng Sa của A Phủ sau này cũng là điều dễ hiểu.
Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Bài làm 2
Có những sở thích nhất thời, song cũng có những sở thích đời đời không thay đổi, có những nỗi đau thoáng qua và cũng có những vết thương hằn sâu theo năm tháng. Nếu giở những trang đời đẫm lệ của Kiều ta sẽ khóc, nếu Chí Phèo chết ta xót thương thì khi đọc Vợ chồng A phủ ta cũng cho phép tim mình rung lên theo tiếng thổn thức của Mị. Một cô gái trẻ phải chôn vùi cuộc đời thanh xuân trong nhà tên thống lí đến khi trốn khỏi Hồng Ngài, ta vẫn còn thấy được một sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong người con gái Mèo ấy!
Hạt nẩy mầm ra hoa kết trái là một qui luật tự nhiên. Là con gái lớn lên lấy chồng về làm dâu nhà chồng cũng là một tự nhiên và cũng là mơ ước của họ. Thế nhưng, hạnh phúc rất nhiều song nói như người đời, ông trời lại hay ích kỉ, ông chỉ ban cho một số người hạnh phúc còn khổ đau dường như nhân loại ai cũng được hưởng. Em nhớ H.Banzac trong “Miếng da lừa” có viết “Trên đời không có gì trọn vẹn hơn sự bất hạnh” là vậy. Ngay cả hạnh phúc tưởng chừng như tầm thường dễ dàng đó cũng không mỉm cười với Mị, nó quay lưng với cô và mở cho cô trang đời cơ cực: trang đời đẫm đầy nước mắt.
Chân dung Mị hiện lên đầu tác phẩm gần như là tảng đá chai sạn khô lạnh, dường như ngọn lửa tình người đã vĩnh viễn tắt ngấm trong trái tim cô. Cô cứ “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Từ ngày bị bắt về làm dâu gạt nợ trong nhà thống lí đến nay, gương mặt Mị chỉ toàn nước mắt. Gia đình Pá Tra nào có xem Mị là một con người, là một thành viên hợp pháp? Một con ở! Thậm chí một con vật. Làm việc cạnh tàu ngựa, buồng ngủ gần tàu ngựa Mị giống như con ngựa nhà thống lí. Ngày nối ngày, Mị chỉ biết “quay tơ hái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi, đi cõng nước”. Mị tồn tại đấy song chỉ là cái xác biết đi, linh hồn Mị tắt lịm từ bao giờ rồi. Song, thật sự Mị vẫn chưa chết, con người của Mị ngày xưa vẫn còn sống trong thể xác héo mòn và vẫn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt. Mị là con của núi rừng sơn cước, dòng suối rừng cây đã nhen nhóm trong cô một vẻ hồn nhiên mộc mạc. Cô sống như chính cô, không giả dối, không tính toán so đo. Mị rất yêu đời. Cô đẹp, cô có tài thổi sáo và đã từng vui chơi như tất cả mọi người. Cô không có con trai khép kín dưới lòng biển sâu mà cô là cánh chim hay hót của núi rừng. Mị đã từng phản đối khi nghe tin Pá Tra đòi bắt cô về làm dâu gạt nợ. Mị bảo với bố “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Mị yêu tự do, Mị yêu cuộc sống Mị muốn là cánh hải âu không sợ biển lớn, sông dài, cô sẵn sàng trả bằng mọi giá để được tự do bên bố, bên gia đình, được yêu, được ca hát. Mị đã có ý thức hẳn hoi về cuộc sống, thế nhưng sự ngang trái cuộc đời đã chụp lên Mị màu đen tang tóc. Đối với Mị tự do là điều quí nhất. Song, đóa hoa vừa chớm nụ xuân vừa rung rung ngỡ ngàng đón cuộc đời mới – đời thiếu nữ – đã bị người ta ngắt, người ta vò nát, không thương tiếc: Mị bị A Sử bắt.
Đau đớn đến tận cùng “có đến hàng mấy tháng đêm nào Mị cũng khóc” và rồi chính sức sống mãnh liệt, chính tình yêu cuộc sống đã đưa Mị đến ý định tự tử: Thà tự hủy diệt thân xác còn hơn sống mà không được tự do, sống theo lí tưởng của mình. Những ngang trái cuộc đời không buông tha Mị, cũng như bể khổ thế gian không cho phép Kiều phải chết, nàng phải sống, sống chịu đọa đày.Và Mị không thể chết vì Mị phải sống để gánh trên vai mối nợ truyền kiếp của cha mẹ. Cha mẹ cô cả đời khổ cực còn phải sống vì con. Còn cô? Cô đã làm gì chưa? Cô không thể chết phải cam chịu làm tảng đá vô tri, làm kiếp ngựa, kiếp con rùa thui thủi xó cửa nhà giàu. Năm tiếp năm, tháng tiếp tháng, ngày lại nối ngày, Mị cam chịu tất cả! Con ngựa con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ còn Mị chưa bao giờ được nghỉ ngơi. Ngày giờ chồng lên chừng nào thì sức sống của cô gái ngày xưa bị tiêu hao chừng ấy. “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Sự đọa đày đã trói buộc đã biến Mị thành nô lệ gần mất hẳn sức sống Mị quên hẳn việc tử tự của những năm về trước. Đối với Mị lúc này thời gian là vô nghĩa. Mị chỉ biết làm việc mà thôi. Đáng lo thay khi con người mất dần nhận cảm về thời gian vì như thế con người đó đã chết. Họ họat động chỉ bằng bản năng còn đời sống tâm hồn đã tắt ngấm buồn vui, thời gian trôi qua thật vô nghĩa. Thế lực phong kiến và thế lực thần quyền trong nhà thống lí đã nghiến nát, đã tước đọat được cuộc đời thanh xuân, yêu, sống của Mị.
Đọc phần đầu tác phẩm em không khỏi liên tưởng Mị là cô Huệ Chi trong Cửa biển của Nguyên Hồng. Song, công bằng mà nói Huệ Chi hạnh phúc hơn Mị. Nàng chỉ sống như đã chết trong một thời gian ngắn mà thôi – lúc bị ép gả cho tên tướng Nhật và nàng lại diễm phúc hơn Mị gấp bội lần. Nàng được chết, được trở về một thế giới ngát hoa vĩnh hằng với đôi tay rộng mở tình yêu của Mẹ. Còn Mị đau đớn thay khi cô phải kéo lê cuộc đời khổ ải hàng mấy năm. Nhưng rồi Chí Phèo vẫn còn được bát cháo ân tình của Thị Nở đánh thức. Mị cũng thế! Người con gái yêu đời, yêu cuộc sống như thế mà lại phải “chết” dễ dàng thế sao?
Tiếng sáo vang dội từ xa, len lỏi vào tâm hồn Mị. Tiếng sáo ngân vang ấy đã mở cửa ngôi nhà tâm hồn từ lâu “im ỉm khóa” của Mị. Mị chợt nhớ – Lần đầu tiên qua bao năm nay kí ức chợt ùa về với Mị, Mị nhớ đến ngày trước “Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này Mị uống rượu bên bếp lửa và thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Và lần đầu tiên, lại cũng là lần đầu ý định tự tử lại đến và Mị ước “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay”. Khi con người ta muốn chết, hơn lúc nào hết lúc đó người ta tha thiết yêu cuộc sống và chính vì không được cuộc sống đáp ứng nên họ rơi vào sự thất vọng và tìm đến cái chết. Sức sống của Mị không bị hủy diệt mà tiềm ẩn và hôm nay như có một luồng gió mới thổi vào nó có dịp trỗi dậy. Mị đang thả hồn theo tiếng sáo như lần theo sợi dây quá khứ để tìm về những ngày xưa hạnh phúc. Và bất giác “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng”. Mị muốn đi chơi, Mị “ngồi xuống giường trông ra cái ô cửa sổ mờ mờ trăng trắng”. Còn ô cửa sổ nhỏ?
Ô cửa sổ trong tác phẩm này là một không gian nghệ thuật, nơi ấy Mị nhớ về quá khứ, về thuở con gái. Không gian mờ đục đó hôm nay, Mị mới nhận thức được. Bấy lâu nay Mị nào có quan tâm. Không gian âm u có phải chăng là đời Mị? Một cuộc đời trong màn sương không lối thoát, Mị có phải chăng là con mồi mãi sa vào lưới nhện? Hôm nay, tiếng sáo luồn qua khung cửa đã làm cho Mị nhớ về quá khứ, một thời son trẻ được tái hiện qua lớp “mờ mờ trăng trắng” ấy. Con người thực tế trong Mị đã sống dậy thay thế cho con người vô thức. Thế mà, mãi mãi bất hạnh cứ không thôi bám riết lấy Mị. Hai lần vươn tay đến hạnh phúc, hai lần sức sống trở về là hai lần A Sử đã lấy đi mất, đã dang tay đẩy Mị trở về số kiếp con rùa, con ngựa. A Sử trói Mị tàn ác như thời trung cổ, nhưng Mị bất chấp tất cả, Mị không sợ, Mị đang sống với hạnh phúc kỉ niệm, đang thả trôi mình theo tiếng sáo. Thế nhưng sự tàn ác luôn không cho Mị hưởng hạnh phúc dầu một thời gian ngắn ngủi thôi. Mị trở về kiếp lùi lũi như con rùa con ngựa.
Cuối cùng sức sống ấy đã trỗi dậy hơn lúc nào hết, nó mãnh liệt bội phần. Lần Mị cởi trói cho A Phủ. Thoạt tiên lúc thấy A Phủ, Mị nhìn. Một cái nhìn hờ hững không xúc động, không lạ lùng. Cảnh nhà này trói người là chuyện thường. Nhưng đến một đêm, như bao đêm nào Mị cũng thức dậy và vẫn “thản nhiên thổi lửa hơ tay”. ánh lửa “bập bùng sáng lên” chính ánh lửa ấy đã buộc Mị “lé mắt trông sang thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Và cũng như tiếng sáo, dòng nước mắt đau khổ của một con người đau khổ đã lôi tuột Mị trở về quá khứ khổ đau ngày nào.
Nhìn A Phủ đứng đấy như một xác chết, bất giác Mị lại nhớ đến mình “Trông người lại ngẫm đến ta” là vậy, Mị nhớ đến hôm ấy mình cũng đã chịu trói như thế và nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ… không ai biết, ai hay. Nhìn A Phủ Mị thương mình quá! Sao đời mình lại khổ đến thế! Và từ thương bản thân Mị nghĩ đến người, nghĩ đến người đàn bà đã bị chết trói, nghĩ đến A Phủ Mị căm giận lũ người vô lương. Cái thương, cái căm giận, cái phẫn nộ ấy khác nào như nguồn hơi bơm vào một quả bóng đã căng và căng đến mức phải nổ tung, chính những điều đó đã làm Mị quan tâm đến A Phủ, một con người khổ sở chỉ vì đánh mất một con bò mà phải đem mạng mình đánh đổi. Không! Mị nhủ A Phủ không lí do gì phải chết. Và Mị đã hành động: “Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị tưởng như A Phủ đương biết có người bước lại, Mị rút dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phè từng hơi không biết mê hay tỉnh”.
Mị hành động không hề tính toán. Thật vậy sau khi cởi trói cho A Phủ “Mị cũng hốt hoảng” Mị hành động chỉ vì thương và ý định trả thù… Mị không muốn một cái chết lại xảy ra, một tội ác nữa lặp lại, dù sao Mị cũng là một con người, Mị có trái tim nhân hậu của một con người. Và hành động đó là sự phản kháng của sức sống ngày xưa. Có người cho rằng đây là một hành động tự phát vô ý thức. Song theo em vẫn có thể hiểu đây là một hành động xuất phát từ một quá trình vận động tâm lí có ý thức. Có thể xảy ra lắm chứ! Nhưng cái quan trọng ở đây là kết quả một sức sống tiềm tàng, tiềm ẩn của Mị trước đó. Mị cởi trói cho A Phủ là đã tự tay giật bỏ vòng xiềng xích cho mình. Và hành động tự giải phóng này của Mị có nguồn gốc từ cái buồn “rười rượi” từ cách uống rượu từng bát như uống cay đắng tủi nhục của cuộc đời… Và dĩ nhiên, nó trực tiếp hơn nhờ vào tiếng sáo gọi bạn, tiếng sáo đã làm cho lòng Mị bùng lên một ngọn lửa vốn dĩ đã dập tắp từ lâu.
Giữa màn đêm u tối, Mị lao theo A Phủ, Mị lao vào bóng đêm để xé tọac bóng đêm đến với ánh sáng của tự do và hạnh phúc. Mị chạy theo A Phủ chạy trốn để tìm một vùng đất mới, để sống với hạnh phúc, được làm con người. Mặc dù giữa Mị và A Phủ chưa hề có khái niệm tình yêu, thứ tình yêu trai gái nhưng ở họ có một thứ tình khác: tình người, người cùng đau khổ. Và họ đã biết rằng phải dựa vào nhau để sống. Chỉ có một con đường sống, duy nhất và con người thực của cô gái Mèo ấy đã thắng, cô lao đi quên tất cả, quên thế lực quên sự trả thù của cha con thống lí, quên đi con ma thần quyền chi phối, trói buộc cụôc đời cô. Đối với cô bây giờ tự do là trên hết. Cô lao đi, đi đến phía trước dù cô chưa định hình rõ nhưng đấy là đường sống. Khác với chị Dậu trong Tắt đèn Chị Dậu lao ra đêm đen, và bóng tối như muốn nuốt chửng chị ấy, chị mò mẫm trong vùng tối ấy. Chị không có con đường sáng để đi. Chị lao ra chỉ đơn thuần là tránh nạn, chị lao ra để mà lao ra song không lối thoát: Chị Dậu không thể tự giải phóng nổi mình “Trời tối như mực và như cái tiền đồ của chị”. Còn Mị, Mị lao ra để cùng đi với A Phủ đến một miền đất sống.
Kết thúc đoạn trích là cảnh A Phủ dìu Mị lao xuống dốc. Có lẽ tác phẩm dừng ở đây thì em chắc hẳn người đọc ai cũng sẽ tin chắc rằng A Phủ và Mị sẽ được sống yên lành và hạnh phúc. Bởi lẽ với sức sống mãnh liệt với niềm yêu cuộc sống đến thế thì không thể nào họ (mà đặc biệt là Mị) lại có thể không tìm được cuộc sống đích thực như í muốn. Và không những chỉ có Mị mà bất kì một ai khác đều yêu tin vào cuộc sống thì sớm hay muộn trái ngọt hạnh phúc cũng đến với tay họ, dù hôm nay đang chịu nhiều đau khổ, nhọc nhằn. “Hạnh phúc là một sự đợi chờ” (J.Rútxô).
– Bài làm 3
“Vợ chồng A Phủ”, “Miền Tây”, “Vừa A Dính”… là những tác phẩm nổi tiếng của Tô Hoài viết về phong tục, cảnh sắc và con người miền Tây của Tổ Quốc ta. Tô Hoài đã từng nói: “Tôi coi Việt Bắc, Tây Bắc cũng như một quê hương đề tài của tôi”. Tại truyện “Tây Bắc” là một nét son chói lọi trong sự nghiệp văn chương của Tô Hoài viết về đề tại miền Tây. Một chuyến đi dài, theo bộ đội vào giải phóng vùng Tây Bắc, ông đã sáng tác thành công tập truyện ngắn “ Truyện Tây Bắc”, trong đó có truyện “Vợ chồng A Phủ”. Qua truyện ngắn này, Tô Hoài đã phản ánh nỗi thống khổ và sự vùng dậy của người Mèo ở Tây Bắc, một lòng quyết tâm đi theo kháng chiến để dành lấy hòa bình và hạnh phúc.
Những trang viết về Mị – một trong hai nhân vật chính của chuyện vô cùng cảm động. Mị tuy bị chà đạp, bị giày xéo trong bể khổ cuộc đời nhưng cô đã có một sức sống tiềm tàng kì lạ!
Mị là một cô gái trẻ đẹp, duyên dáng, thổi sáo hay, “có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Nhà nghèo, năm nào bố Mị cũng phải trả lại một nương ngô cho thống lí Pá Tra. Bố đã già, Mị thương bố lắm. Cô đã nói với bố: “Con nay đã biết cuốc nương ngô, con phải làm nương ngô trả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu.” Món nợ truyền kiếp bố Mị vay của thống lí Pá Tra như một oan trái cuộc đời. Mị đã bị A Sử – con trai của thống lí bắt về cùng trình mà. Mị đã trở thành dâu gạt nợ. Đau xót quá! “Chao ôi, thế là cha mẹ ăn bạc của nhà giàu từ kiếp trước, bây giờ người ta bắt con trừ nợ. Không thể nào làm khác được rồi!”. Tiếng than của bố Mị nói lên một sự thật cay đắng: Mị là con dâu gạt nợ của thống lí Pá Tra, điều đó như một định mệnh bi thảm.
Những năm đằng đẵng làm dâu gạt nợ, Mị bị đối xử hết sức tàn tệ, chẳng khác gì một con vật. Phải làm quần quật quanh năm suốt tháng. Lên núi hái thuốc phiện, gặt đay, xe đay, đi nương bẻ bắp, lúc hái củi bùng ngô, lúc nào Mị cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Mị chẳng khác nào con trâu, con ngựa nhà thống lí Pá Tra. Khổ cực quá chứng: “Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì làm việc cả ngày cả đêm”.
Tuổi trẻ, sắc đẹp của Mị bị vùi dập, cô như một đóa hoa trong rừng chóng héo tàn. Lúc nào cũng “cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Buồng của Mị như một cái chuồng nhốt thú kín mít, lúc nào cũng tối om, chỉ có một cửa sổ to bằng lòng bàn tay, “lúc nào nhìn ra cũng thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng.” Đau khổ quá, Mị nghĩ rằng: “mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”. Nỗi ám ảnh ấy thật ghê sợ. Mị như một linh hồn đã chết.
Cứ tưởng rằng Mị cam chịu số phận. Nhưng cô đã cố vùng vẫy thoát khỏi cái dây oan nghiệt của cuộc đời. Hàng mấy tháng trời, đêm nào Mị cũng khóc. Mị trốn về nhà, tròng mắt đỏ hoe. Gặp bố “Mị quỳ lạy, úp mặt xuống đất nức nở”. Lần đầu tiên, Mị phản kháng số phận tủi nhục, hái lá ngón toan ăn để tự tử. Nhưng Mị đi, ai sẽ làm nương ngô trả nợ cho thống lí khi bố Mị đã “ốm yếu quá rồi”. Thương bố, “Mị không đành lòng chết”, Mị ném nắm lá ngón xuống đất “đành trở lại nhà thống lí”, cam chịu kiếp trâu ngựa, sống lùi lũi như con rùa nuôi xó cửa. Biết bao mùa xuân trôi qua, biết bao nước mắt đã chả xuống, cũng như những người đàn bà trong nhà thống lí “một đời chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng”… Mị thấy mình là con trâu, con ngựa, “chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi!”. Một đời con gái, một kiếp người bị vùi dập đến tê dại như thế thì sự đau khổ đã tột cùng.
Một bất ngờ khác đến với người đọc. Lần thứ hai Mị vùng dậy, Mị “lén lấy hũ rượu, uống ực từng bát” rồi say “lịm mặt”, ngồi xem mọi người nhảy đồng rồi hát, “trong lòng Mị đang sống về những ngày trước”. Con gái vùng rẻo cao, ai mà chẳng uống rượu, hẳn Mị cũng vậy. Nhưng cách “uống ực từng bát” thì quả là bất thường. Mị uống cho quên hết mọi khổ đau? Mị uống cho hả giận, Mị uống để thức tỉnh lòng mình sống lại những ngày xuân, sống lại với quá khứ thời con gái. Nếu như những năm qua, bếp lửa và ngọn lửa đã sưởi ấm lòng Mị, đã làm nguội đi, vợi đi bao đau nhục cuộc đời thì giờ đây, tiếng sáo, tiếng háy của trai gái Mèo tha thiết gọi bạn tình đã thức dậy trong lòng Mị bao khát khao:
“Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi…”
Mị đã tự ý thức về mình. Mị thấy lòng phơi phới, vui sướng như thời con gái bước vào những đêm tình mùa xuân. Mị thấy mình “trẻ lắm..vẫn còn trẻ”. Mị thấy mình cô đơn, Mị phải đi chơi. Bao nhiêu cô gái khác có chồng vẫn đi chơi. Thật vô lí hơn nữa khi Mị thấy mình với A Sử “không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. Mị khóc, Mị thương mình đau khổ. Mị ghê tởm A Sử “còn muốn rình bắt mấy người con gái nữa về làm vợ” Mị muốn ăn lá ngón cho chết ngay. Một sức sống tiềm tàng trong lòng Mị như một ngọn lửa cháy âm ỉ. Bạo lực, Mị cũng chẳng sợ. Mị xắn mở bỏ vào đĩa đèn cho sáng, quấn lại tóc, với lấy váy hoa, rút thêm cái áo, chuẩn bị đi chơi xuân. Hành động của Mị diễn ra trước mắt A Sử như thách thức. Không thèm trả lời khi hắn hỏi: “Mày muốn đi chơi xuân à?”. Sự vùng dậy này phải trả giá. Thằng con trai của thống lí đã vô cùng tàn nhẫn, trói đứng Mị trong căn buồng tối bằng một sợi đay và quấn cả tóc Mị lên cột làm Mị “không cúi, không nghiêng đầu được nữa”. Nhưng sức sống vẫn tiềm ẩn trong lòng người con gái Mèo này. Suốt đêm bị trói đứng, “dây trói thít lại đau nhức”, lúc mê, lúc tỉnh, Mị “nồng nàn tha thiết nhớ” và cô bồi hồi: “Mị vẫn nghe tiếng sao đưa Mị theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Tâm trí Mị chập chờn, “có lúc vùng bước đi”, nhưng bị trói lại, đi sao được? Nghe tiếng ngựa gãi chân, nhai cỏ, Mị thổn thức nghĩ “mình không bằng con ngựa”.
Chúng ta đã từng đọc truyện thơ “Tiễn dặn người yêu”. Co gái Thái bị ép duyên đau khổ than thân: “Ngẫm thân em chỉ bằng con bọ ngựa – Bằng con chẫu chuộc thôi…”. Nỗi cay đắng của Mị còn gấp trăm nghìn lần như thế. Được cởi trói do một sự tình cờ, cô phải vào rừng hái lá thuốc, suốt đêm ngồi xoa thuốc dấu cho A Sử. Đau ê ẩm, mỏi quá, Mị gục đầu thiếp đi lại bị tên khốn nạn “đạp chân vào mặt”. Tô Hoài đã ghi lại một cách cảm động sự vùng dậy lần thứ hai của Mị với bao vùi dập, đau đớn e chề! Mị vẫn chưa gục ngã trước số phận!
Lần thứ ba, Mị lại vùng dây. Hình như số phận của Mị đã gắn liền với số phận của A Phủ như một tiền định. Một bên là con dâu gạt nợ, bên kia là kẻ tội phạm đánh con của quan. Cả hai đều là trâu ngựa cho nhà thống lí Pá Tra. Mị đã bị A Sử trói đứng, A Phủ vì để hổ bắt mất bò mà bị trói vào cột bằng dây mây, “quấn từ chân lên vai, chỉ có cổ và đầu là nhúc nhích được”. Làm sao để bắt được con hổ? A Phủ nhất định phải thế mạng. Suốt mấy ngày đêm bị trói, A Phủ “chỉ đứng nhắm mắt”, má A Phủ xám lại. A Phủ sắp chết. Giữa đêm khuya, từ bên kia bếp lửa nhìn sang, Mị thấy những giọt nước mắt lăn dài trên má A Phủ mà xót xa, động lòng: “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết…”. Mị căm thù nguyền rủa cha con thống lí “Chúng nó thật độc ác… Người kia việc gì phải chết…” Mị không còn biết sợ hãi nữa. Cô đã dùng dao cắt lúa, cắt dây mây cởi trói và cứu A Phủ. Như một lời khích lệ “Đi ngay!” Cô đã chạy theo A Phủ và nói “A Phủ cho tôi đi… ở đây thì chết mất!”. Lương âm thức tỉnh, Mị đã cứu A Phủ và cũng là tự cứu chính mình. Thật là dữ dội khủng khiếp, tình huống truyện đã tạo nên tính bi kịch cho những số phận. Bao nhiêu máu, nước mắt, Mị mới dành được tự do. Mị thương người, tự thương mình. Khát vọng về tự do, hạnh phúc là nguồn sức mạnh để Mị vùng dậy.
Trốn khỏi Hồng Ngài, Mị và A Phủ nên vợ chồng, họ trở thành du kích Phiềng Sa. Hành động cắt dây trói cứu A Phủ và vùng A Phủ chạy trốn là đỉnh điểm của sự vùng dậy của Mị là thể hiện sức sống tiềm tàng của người con gái Mèo trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Khát vọng về tự do, quyền được sống, được hạnh phúc đã cho Mị sức mạnh để vùng dậy. Sức sống tiềm tàng của Mị đã khẳng định một chân lí: Bạo lực không đè bẹp được khát vọng tự do!
Nhân vật Mị được nhà văn Tô Hoài miêu tả và khám phá trong chiều sâu tâm hồn, trong những sắc thái “thăng trầm, gấp khúc” của tâm trạng. Miêu tả thành công sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị, ngòi bút nghệ thuật của Tô Hoài đã làm cho truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” sáng bừng giá trị nhân đạo. Người đọc mãi mãi thấm thía về cái giá của tình yêu, hạnh phúc và tự do.
– Bài làm 4
Trong truyền thống nhân đạo, văn học Việt Nam ta đã xây dựng thành công nhiều hình tượng đẹp về người phụ nữ. Đó là những người mẹ, người chị, người em cần cù, tần tảo, giàu tình thương, giàu đức hi sinh, luôn lấp lánh vẻ đẹp tâm hồn đáng quý dẫu bị hoàn cảnh dập vùi. Nhắc tới điều ấy, khó thể quên nhân vật Mị trong chồng A Phủ của Tô Hoài. Đúng như nhiều nhà phê bình đã nhận xét, hình tượng Mị là điểm sáng, là thành công nổi bật nhất của Tô Hoài khi viết Vợ chồng A Phủ. Bằng vốn hiểu biết phong phú, bằng niêm đồng cảm sâu sắc trước cuộc đời người phụ nữ lao động miền núi Tây Bắc và ngòi bút nghệ thuật tinh tế, Tô Hoài đã xây dựng Mị thành hình tượng điển hình cho một thế hệ phụ nữ Tây Bắc đang từ thân phận nô lệ tăm tối vươn ra ánh sáng tự do với sức sống tiềm tàng.
Bước vào tác phẩm, người đọc bắt gặp ngay hình ảnh Mị. Cô đang ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa nhà thống lí. Dường như sự xuất hiện của Mị thường gắn với cái không gian chật hẹp, bẩn thỉu này. Lúc nào cũng vậy, dù đang làm công việc gì, cô gái ấy cũng “cúi mặt, mắt buồn rười rượi”. Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí thường thắc mắc: tại sao nhà thống lí lắm tiền nhiều của, lúc nào cũng tấp nập người mà lại có cô con gái buồn đến như vậy. Nhưng hỏi ra người ta mới rõ cô ấy không phải con gái nhà Pá Tra mà là vợ A Sử, con trai thống lí.
Tô Hoài đã mở đầu truyện bằng một hình ảnh gợi ngạc nhiên, tô đậm ấn tượng vào lòng người đọc để từ đó quay lại kể về lai lịch Mị.
Sinh ra trên đời, Mị đâu đã khổ. Tuổi thiếu nữ, cô từng được sống những tháng năm hạnh phúc, dù trong đói nghèo. Mị xinh đẹp, hát hay, có tài thổi sáo từng được bao trai bản mê. Nhiều đêm mùa xuân, con trai đến thổi sáo “đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”". Một cô gái như thế, lẽ ra xứng đáng hưởng cuộc đời hạnh phúc. Nhưng Mị lại sinh ra trong một nhà nghèo và trăm sự cũng bới cái nghèo, bởi bọn thống trị tham lam và độc ác. Vì món nợ truyền kiếp, vì tục cướp vợ của người H’ Mông mà cô gái tự do, trong trắng ấy bỗng chốc bị biến thành con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Thời gian đầu bị bắt về nhà thống lí, “có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Cô thấm thía nỗi đau của một cuộc đời tự do bị tước đoạt. Đã có lần, Mị toan tìm đến cái chết để giải thoát. Nhưng rồi vì lòng thương bố mà Mị không đành chết. Cô vứt nắm lá ngón, lẳng lặng quay lại nhà thống lí chẳng khác gì trở về chốn địa ngục trần gian. Từ đó, Mị âm thầm chấp nhận thân phận nô lệ. Cô không còn biết khóc, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Suốt ngày, Mị quần quật hết việc này sang việc khác, tưởng mình cũng là con trâu, con ngựa nhà thống lí. Cô giam mình trong căn buồng tối kín mít, có một lỗ cửa sổ vuông bằng bàn tay, trông ra chỉ thấy mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Dường như Mị đã mất ý niệm về thời gian, về tuổi trẻ. Cuộc đời đối với Mị lúc bấy giờ chỉ là một đêm dài thăm thẳm mà thôi. Ngày trước, Thúy Kiều của Nguyễn Du đã vì chữ hiếu mà hi sinh chữ tình. Giờ đây, cô Mị của Tô Hoài có khác gì đâu, cô đành quên đi tuổi trẻ, đánh đổi tự do mà trả món nợ cho nhà giàu.
Tưởng chừng ở lâu trong cái khổ, Mị đã hoàn toàn chai lì, mê mụ đi. Vậy mà không. Tận chiều sâu tâm hồn người phụ nữ bất hạnh ấy vẫn âm thầm niềm khát khao hạnh phúc, khát khao được thay đổi. Khát khao này cứ âm ỉ tựa đốm than hồng bị vùi nén để khi gặp được ngọn gió lành sẽ bùng lên thành ngọn lửa.
Ngọn gió lành đau tiên khơi dậy sức sống tiềm tàng trong Mị chính là tiếng sáo gọi bạn tình vào một đêm mùa xuân. Mùa xuân đã đem đến cho thiên nhiên và lòng người ở các bản Mèo một sức sống mới rộn rực. “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi”, cô ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi. Vậy là tiếng sáo gọi bạn tình bắt đầu thức dậy nơi Mị hoài niệm về tuổi trẻ hạnh phúc. Ngòi bút Tô Hoài như cũng bắt đầu hồi hộp dõi theo các bước diễn biến tâm trạng và hành động của có gái để diễn tả thật tinh tế.
Lúc bấy giờ, cả nhà thống lí Pá Tra vừa ăn xong bữa cơm Tết cúng ma. Mọi người đang nhảy múa, đánh chiêng ầm ĩ và uống rượu bên bếp lửa. Nhìn người ta như thế, Mị nghĩ: “Ngày Tết, Mị cũng uống rượu”. Cô lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát. Đã là con người, ai cũng có quyền uống đôi ba chén rượu ngày Tết. Mị cũng uống để chứng tỏ rằng mình đang là một con người. Mị uống thế như cho bõ tức, bõ hờn bấy lâu nay. Hành động uống rượu này của Mị chính là thể hiện của ý thức làm người, ý thức về quyển bình đẳng. Nó là gì nếu không phải là chứng tỏ của một sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy ? Uống rượu đến say, lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy múa nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Cũng những đêm mùa xuân như thế này. Mị được thổi sáo, được đi chơi. “Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Cô uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Đột nhiên, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng vui sướng như những đêm Tết ngày trước. “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Lời văn Tô Hoài cũng chộn rộn, náo nức cùng cõi lòng cô gái ở thời điểm ấy. Chợt nghĩ lại thân phận bất hạnh của mình lúc này, một lần nữa Mị lại muốn chết: “Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau ! Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra. Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường…”. Lần muốn chết trước là ý định giải thoát đầy uất ức. Lần muốn chết này cũng thế nhưng là kết quả của sự nhận thức đầy đủ hơn về cảnh ngộ éo le của mình.
Tiếp đó, Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Cô cứ nghĩ, cứ làm như không có A Sử đang gần đấy. “Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo”. Từ âm thanh bên ngoài vọng đến, tiếng sáo giờ đây đã nhập vào hồn Mị, cứ ám ảnh, chập chờn như vẳng lên từ lòng cô. Bấy lâu nay, Mị có bận tâm gì tới bóng tối hay ánh sáng xung quanh mình đâu. Nhưng có lẽ giờ đây cô không còn chịu nổi cái bóng tối đang vây bọc lấy mình nữa. Thắp sáng thêm đĩa đèn hay là Mị đang muốn thắp sáng lại cả cuộc đời mình ?! Mị quấn lại tóc, với tay lấy chiếc váy hoa vắt ở phía trong vách chuẩn bị đi chơi.
Chính cái lúc sự phản kháng trong Mị trỗi dậy đến độ cao nhất thì bị phũ phàng chặn đứng. A Sử đã trói đứng Mị vào cột nhà bằng cả thúng sợi đay. Mái tóc dài của Mị bị quấn lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa. Thế nhưng, thật là kì lạ, ngay trong lúc bị hành hạ như thế, sức sống tiềm tàng ở Mị vẫn không lụi tắt. “Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Có khi, Mị như không biết mình đang bị trói, định vùng bước đi. Nhưng sợi dây trói nghiệt ngã lại kéo Mị về với thực tại. Cô thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa. “Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi”, cả đêm ấy, Mị nửa sống với hiện tại, nửa sống về ngày trước. “Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại đau nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ”.
Cái sức sống tiềm tàng đã một lần trỗi dậy thì không thế lực nào dập tắt nổi. Nó cứ âm thầm tồn tại để rồi bùng lên mạnh mẽ hơn vào một đêm năm sau. Ấy là một đêm mùa đong giá lạnh trên vùng núi cao, Mị không ngủ được, trở dậy đốt bếp lửa sưởi. Đã mấy đêm nay như thế rồi. Mỗi khi ngọn lửa bùng lên. Mị nhìn sang, thấy mắt A Phủ vẫn mở trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống. Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Chuyện A Phủ bị trói nào có lạ lùng gì đối với Mị. Mặt khác, A Phủ sống hay chết thì có liên quan gì tới Mị đâu. Nhưng lần này? Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. Một người như A Phủ đâu dễ khóc. Có lẽ đến lúc này, anh nhận ra mình sắp đi đến cái chết oan ức rồi đây. Từ đây, Mị mới bắt đầu nghĩ. Cô chợt nhớ lại đêm năm trước mình cũng bị trói đứng vào cột như thế này, cũng dòng nước mắt tủi hờn chảy xuống miệng, xuống cổ không sao lau đi được. Rất tự nhiên, Mị nghĩ đến cái chết và cô so sánh hai cái chết: Ta là thân đàn bà, đã trình ma nhà nó rồi thì chỉ biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi. Còn người kia, việc gì mà phải chết oan ức đến như vậy. Chính từ so sánh này, Mị mới phảng phất nghĩ đến chuyện chết thay cho A Phủ. Nghĩ đến cảnh mình lại bị trói thay vào đấy, phải chết trên cái cọc ấy, Mị không khỏi cảm thấy lo sợ.
Vậy là nước mắt đã gợi nhớ nước mắt. Dòng nước mắt nơi A Phủ bỗng thức dậy niềm đồng cảm, lòng yêu thương ớ người phụ nữ từng chịu nhiều đắng cay, bất hạnh này. Và tình thương đã chiến thắng nỗi sợ trong phút chốc. Mị đi đến một hành động thật táo bạo: cắt dây trói, giải thoát cho A Phủ.
Trong khi làm việc ấy và đến khi cắt đứt sợi dây trói, cuối cùng trên người A Phủ, Mị chỉ nghĩ tới chuyện chết thay chứ đâu đã định cùng chạy thoát khỏi nhà thống lí. Nhưng khi đứng lặng trong bóng tối nhìn theo A Phủ vừa chạy, vừa lăn xuống dốc để rời xa chỗ chết thì Mị lại không muốn chết nữa. Cô vùng chạy theo A Phủ. “Ở đây thì chết mất” – câu nói và hành động này của Mị chứng tỏ lòng ham sống trỗi dậy thật tự nhiên trong người con gái tiềm tàng khả năng phản kháng. Giải thoát cho A Phủ, đồng thời Mị cũng tự giải thoát cho chính mình. Lí giải hành động quyết liệt này của Mị, trước tiên ấy là niềm đồng cảm sâu sắc giữa hai thân phận. Nếu như Mị là con dâu gạt nợ thì A Phủ là đứa ở trừ nợ. Cả hai đều phải đem tuổi trẻ, tự do của mình mà trả món nợ cho nhà giàu. Nếu như Mị tùng bị trói đứng vào cột, dòng nước mắt tủi hờn chảy xuống miệng, xuống cổ không sao lau đi được thì giờ đây A Phủ cũng giống y như thế. Nhưng niềm đồng cảm là điều kiện cần chứ chưa thể là điều kiện đủ. Để đi đến hành động táo bạo ấy còn bởi trong Mị luôn tiềm tàng một sức sống. Rõ ràng không phải bất cứ người phụ nữ nào ở vào hoàn cảnh như Mị cũng đều hành động được như cô (Cũng như không phải bất cứ người phụ nữ nào cũng có thể đánh ngã cai lệ và người nhà lí trưởng trong hoàn cảnh “tức nước vỡ bờ” như chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố), ở đây, Tô Hoài đã miêu tả nhân vật đúng với lô gíc vận động nội tại của tính cách, với sự phát triển tự thân chứ không hề bắt ép gượng gạo. Tưởng chừng bột phát, bất ngờ song các hành động của Mị lại rất tự nhiên, hợp lí.
Khi đi vào thể hiện cảnh ngộ bất hạnh cùng vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ, tác phẩm văn học có điều kiện đê đạt tới chiều sâu nhân đạo, để khơi gợi niềm đồng cảm thiết tha ớ bạn đọc. Với nhân vật Mị. Tô Hoài đã làm được điều ấy. Vợ chồng A Phủ đã xây dựng thành công một hình tượng người phụ nữ Tây Bắc với vẻ phong phú, đa dạng. Một cô Mị xinh đẹp, hồn nhiên là thế mà có những lần toan tìm đến cái chết để giải thoát. Một cô Mị dặn lòng chấp nhận kiếp sống nô lệ, tưởng chừng chai lì, mê mụ đi trong cái khổ mà tiềm tàng một sức sống mãnh liệt. Cô Mị ấy đã vùng lên cắt đứt sợi dây trói của cường quyển, thần quyền để đi tới tự do. Thành công của hình tượng này chứng tỏ sự am hiểu, niềm đồng cảm sâu sắc của Tô Hoài đối với người phụ nữ lao động miền núi Tây Bắc, chứng tỏ khả năng nắm bắt và diễn tả tài tình quá trình tâm lí phức tạp, tinh tế của cây bút văn xuôi vào loại hàng đầu trong văn học Việt Nam hiện đại.