03/06/2017, 23:31

Phân tích nhân vật Hoàng trong truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao. Nêu nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật này của nhà văn.

Ta đã từng tiếp xúc với những Điền, những Hộ, với một Chí Phèo, một Lão Hạc của Nam Cao trong những sáng tác trước cách mạng! Ta đã bắt gặp được ở đó những người dân quê lam lũ nghèo nàn, sớm tối quần quật với cấy cày lưỡi cuốc, bị biến chát bởi xã hội đen tối xấu xa. Ta đã nhìn thấy và thông cảm ...

Ta đã từng tiếp xúc với những Điền, những Hộ, với một Chí Phèo, một Lão Hạc của Nam Cao trong những sáng tác trước cách mạng! Ta đã bắt gặp được ở đó những người dân quê lam lũ nghèo nàn, sớm tối quần quật với cấy cày lưỡi cuốc, bị biến chát bởi xã hội đen tối xấu xa. Ta đã nhìn thấy và thông cảm đớn đau cùng với nỗi bi kịch tinh thần đang chất chứa, xâu xé tâm hồn của những người trí thức nghèo trong xã hội. Những con người ấy dường như đã được tập hợp lại để trở thành một hệ thống ...

Sau cách mạng một thời gian, ta lại được tiếp xúc với những tác phẩm mới của ông. Và, ta chợt ngỡ ngàng và không nén nổi cái thú vị trước một hình tượng nhân vật mới của Nam Cao! Đó là Hoàng trong Đôi mắt.
 
Ở đây, nhân vật trung gian được phản ánh qua câu chuyện cũng là một trong những nhân vật nằm trong hệ thống quen thuộc của Nam Cao. Hoàng được giới thiệu với chúng ta cũng dưới tư cách là một nhà văn, nghĩa là cũng sử dụng ngòi bút để làm một cái nghề cao quý. Nhưng có lẽ không hoàn toàn là một nhân vật Điền luôn đớn đau day dứt trong Trăng sáng những ngày xưa. Ở đây Hoàng hiện lên với hình ảnh của một nhà văn có tư cách của một con buôn giữa chợ đen. Cũng sử dụng ngòi bút, nhưng Hoàng chưa một lần phải băn khoăn day dứt, phải tự đối diện và suy ngẫm cùng chính bản thận mình về thiên chức của một nhà văn, chưa một lần nào Hoàng dằn vặt đớn đau với những “dòng văn chương viết dễ dãi, cẩu thả và vô nghĩa lí”. Nói chung hơn là chưa bao giờ Hoàng tự nghĩ về trách nhiệm xã hội của mình đối với nghề văn. Trong Hoàng, dường như cái ý nghĩ “Là nhà văn thì trong suốt cuộc đời không thể cho phép mình sống thờ ơ, ích kỉ” đã chưa từng tồn tại, Hoàng sống giữa cuộc đời, cũng tính toán suy tư, nhưng đó lại là những “suy tư” làm sao đề có thể được an nhàn hưởng thụ. Hoàng chấp nhận và ca tụng một lối sống ích kỉ, chỉ biết lo và nghĩ đến bản thân mình. Hoàng sẵn sàng đặt lợi ích của cá nhân lên trên tất cả.
 
“Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội” (Mác), một cuộc sống có ý nghĩa phải là cuộc sống có cho và có nhận. Anh phải sống vì anh và vì cả mọi người. Thực ra, nếu suy xét cho đến tận cùng, thì việc đem lại hạnh phúc cho người khác cũng chính là đem hạnh phúc cho chính bản thân mình, và hơn nữa, đó có thể được coi như là một nhiệm vụ cần phải được làm ở mỗi người:
 
“Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho đâu phải nhận riêng mình”
 
Trong Đôi mắt, thông qua nhân vật Hoàng, Nam Cao đã nêu bật lên một vấn đề có ý nghĩa vĩnh cữu. Nó day dứt những người làm nghệ thuật. Bất kỳ một nhà văn nào mà lại không cần đến “đôi mắt” và cái nhìn đúng đắn để khám phá và sáng tạo thực tại. Nhưng, nếu có một “đôi mắt” như Hoàng thì không nên có và quả thực không cần phải có nhất là cho những người làm nghệ thuật! Với đôi mắt ấy, Hoàng dường như đã bị “mù” trước thời đại. Những người kháng chiến trí thức nhập cuộc sẵn sàng “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, hay như trong lời một bài hát “Đoàn vệ quốc quân một lòng ra đi, nào có sá chi đến ngày trờ về. Ra đi ra đi bảo tồn sông núi, ra đi ra đi thà chết không lui”, nhưng với Hoàng, thì người nông dân, lực lượng chủ yếu của kháng chiến chỉ là một lũ “đần độn, lỗ mãng, ích kỉ tham lam, bần tiện cả”! Anh nhìn họ với đôi mắt “thiếu tình thương, thiếu trân trọng”. Những gì mà anh nói với họ không phải là không có cơ sở, tuy nhiên nói theo Nam Cao là “chỉ nhìn thấy cái ngố bên ngoài mà không thấy cái nguyên cớ thật đẹp đẽ bên trong”. Chính vì “vẫn giữ đôi mắt ấy để nhìn”, nên nếu nhìn càng nhiều, càng quan sát lắm thì chỉ càng thêm” chua chát và chán nản” mà thôi. Hoàng nhìn cuộc kháng chiến một cách bi quan, dù có được một chút thán phục người lãnh tụ. Nhưng nếu xét kĩ thì cái “chút xíu” tin tưởng ấy là xuất phát từ cái nhìn duy tâm, do sự sùng bái cá nhân. Chỉ thán phục có “ông cụ” như đã từng đắc ý với Tào Tháo. Hoàng đã thực sự sống xa rời quần chúng, chính vì vậy nên anh đánh giá không hết những khả năng của họ.
 
Đối với Độ, một con người sống gần gũi, hòa nhập với sinh hoạt và gắn bó với quần chúng lao động thì lại bị Hoàng cho là “làm một anh tuyên truyền nhãi nhép”. Độ nhìn người nông dân với cái nhìn “người nông dân nước mình vẫn còn có thể làm cách mạng mà làm cách mạng thì hăng hái lắm, và can đảm lắm”, anh nhìn họ bằng cái nhìn đầy nâng niu và trìu mến khác hẳn với Hoàng là khinh khi miệt thị họ, phần đông họ “dốt nát, nheo nhếch, nhát sợ, chịu nhục một cách đáng thương”. Hoàng không như Độ có thể cảm thông trước những tật xấu của người nông dân, để hiểu được họ và đánh giá đúng mức sự đóng góp của họ vào kháng chiến, sống cuộc sống trưởng giả sang giàu nên Hoàng không thể từ bỏ nó để hoà mình vào không khí chung của dân tộc. Anh đứng bên lề cuộc chiến, nhìn đời bằng đôi mắt thiển cận, thản nhiên với tình cảnh dầu sôi lửa bỏng, vô tình với cái vận mệnh đang “ngàn cân treo sợi tóc” của đất nước nhân dân. Trong cảnh tản cư mà Hoàng vẫn thuê được một căn nhà khang trang với “cái sàn gạch” đàng hoàng, vẫn “nuôi chó Tây” và “màn chăn rắc nước hoa sực nức” và cả cái thú vui yên bình đêm đêm nằm đọc truyện Tam Quốc. Dĩ nhiên sống giàu sang, ung dung thư thái như thế thì không có hại cho ai, và nếu nhìn kĩ thì đó chính là cách sống của những người có văn hóa cần đáng được biểu dương và ca tụng. Nhưng điều đáng nói ở đây là tình cảnh đất nước đang cần những người “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, bao người đã và đang sẵn sàng giũ áo ra đi, sắn sàng hi sinh và cống hiến bao xương máu, bao nhà văn đã tự nguyện lột xác để đến với nhân dân với dân tộc, với trách nhiệm công dân. Xuân Diệu, Nguyễn Tuân đã hi sinh cái sở trường tình yêu và sở thích “nhâm nhi chén trà trong sương sớm” để cho giọt mực thấm đẫm cái sức ấm nóng của thời đại, thì lối sống của Hoàng quả thực là lối sống của một con người vô trách nhiệm, nhẫn tâm đến vô tình ác độc. Nó biểu hiện tư chất của một con người ích kỉ, sống chỉ lo cho đến lợi ích của bản thân mình!
 
Nam Cao đã xây dựng nên nhân vật Hoàng bằng một nghệ thuật vô cùng độc đáo. Hoàng “được” Nam Cao mổ xẻ về cái xấu cả nhân hình lẫn nhân tính. Ghét cay ghét đắng Hoàng lẫn cái “tuýp” người như Hoàng trong xã hội đương thời. Nam Cao đã rất thâm thuý khi đặt Hoàng ờ bên cạnh con chó của ạnh ta. Con chó Hoàng chết, “chết không phải v! chủ nó không tìm nồi mỗi ngày vài lạng thịt bò đề nó ăn, mà nó chết có lẽ vì chén phải thịt người ươn hay vì hít phải mùi xú khí”. Thật độc đáo làm sao khi Nam Cao cũng đề cho Hoàng đã một làn cũng “nhăn mũi như ngửi mùi xác thối”, con chó của Hoàng đã chết vì mùi xú khí, thì Hoàng cũng sẽ chết, chết như chính con chó của Hoàng thôi! Đó là một dự báo mà cũng chính là điều tát yếu sẽ xảy ra với bản thân nhân vật.

Như vậy, từ vô số những “đôi mắt” ích kỉ, vô tâm như vậy ờ ngoài đời, Nam Cao đã hệ thống lại đề đưa vào tập trung mọi bản chát trong cùng một con người, chính vì vậy nên nhân vật Hoàng có giá trị điền hình rất cao. Một con người “bước thong thả từ từ vì người anh quá béo, vừa bước vừa bơi bơi hai cánh tay khềnh khệnh ra hai bên, những khối u ờ hai bên nách kềnh ra, tủn mủn vì quá ngắn”, phải chăng là biểu tượng của một con người luôn bơi ngược dòng thời đại, luôn là một vật cản đối với xã hội đương thời? Xây dựng nhân vật bằng những nét điền hình độc đáo, bằng những chi tiết tả thực đệ từ đó có thề lột tả hết những bản chất sâu xa bên trong của mỗi con người. Đó chính là một thành công khá xuát sắc của Nam Cao - một nhà văn lớn của văn học Việt Nam.

oranh11

0 chủ đề

23755 bài viết

Có thể bạn quan tâm
0