Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ‘Vợ nhặt’ của nhà văn Kim Lân- Lớp 12
Đề bài: Em hãy phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ‘Vợ nhặt’ của nhà văn Kim Lân. Có thể thấy truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp năm 1945 để có thể diễn tả được cái đói có sức nặng như thế nào. Nhưng dường như những ...
Đề bài: Em hãy phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ‘Vợ nhặt’ của nhà văn Kim Lân.
Có thể thấy truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp năm 1945 để có thể diễn tả được cái đói có sức nặng như thế nào. Nhưng dường như những ngụ ý của tác giả chính là việc dựa trên nạn đói để lột tả tính cách “trong như ngọc sáng ngời” của những con người, của những kiếp người hay là những mảnh đời lầm thân. Ta như có thể thấy nhân vật bà cụ Tứ là một hình tượng điển hình cho người đàn bà nghèo khổ cho đến cùng cực nhưng có tình yêu thương con đến vô bờ bến. Và dường như hẳn rằng người đọc sẽ không bao giờ quên những lời mà Kim Lân đã dành cho bà.
Kim Lân đã tỏ ra rất khôn khéo khi lựa chọn thời điểm thích hợp để bà cụ Tứ xuất hiện. Và câu hỏi của rất nhiều người thắc mắc tại sao không phải là đầu câu chuyện mà lại ở giữa câu chuyện. Dường như tác giả muốn gợi lên cái nghèo đói đến thê lương của xóm ngụ cư này, lấy nó làm nền, làm đòn bẩy để đi sâu vào phân tích diễn biến tâm lý, nội tâm của người đàn bà này. Bà cụ Tứ xuất hiện khi mà nhân vật Tràng đưa vợ về nhà, và cũng có thể từ đây diễn biến tâm lý của bà cụ thay đổi liên tục từ khi có một người đàn bà khác đã lại xuất hiện trong ngôi nhà của mình.
Cũng giống như những bà mẹ Việt Nam nghèo khổ khác trong thời kỳ cách mạng tháng tám, thì nhân vật bà cụ Tứ hiện lên là một người mẹ nghèo, bị cái đói làm cho cùng cực, và bà như phải suy nghĩ quá nhiều. Bà cụ Tứ đường như đã xuất hiện thật rõ nét qua lời kể tác giả đó là “Từ ngoài rặng tre, bà lọng khọng đi vào. Tính bà thì vẫn thế, bà như vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng. Nhưng hôm nay khác hẳn, khi mà thấy mẹ, Tràng đã sung sướng và reo lên như một đứa trẻ và gọi ới vào trong nhà rằng “U đã về đấy! Anh con trai lật đật chạy ra đón mẹ từ ngoài cổng và trách sao bà về muộn”. Một bà cụ có thể thấy có cái bóng dáng dấp đã không còn nhanh nhẹn, tháo vát nữa mà đó là một bà cụ phải “lọng khọng” đi vào nhà gợi nên một thảm cảnh thê lương đến não lòng.
Đặc biệt hơn nữa chính là sự thay đổi bất ngờ khi bà nhìn thấy người đàn bà lạ ngồi ngay giữa nhà mình “Bà cụ Tứ phấp phỏng bước vào theo con vào nhà. Phấp phỏng chính vì linh tính cho bà biết trong nhà hẳn xảy ra chuyện gì. Và thật là quả đúng như vậy. Khi mới đến giữa sân, bà cụ như đã đứng sững lại và càng ngạc nhiên hơn. Và dường như trong nhà bà có người, lại là đàn bà. Bà Tứ như thắc mắc “Người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Bà chưa gặp, bà không quen bao giờ. Người ấy lại đướng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u?.. Ai thế nhỉ?” Có thể dễ nhận thất hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu bà lão.
Và hay có thể rằng bà Tứ đã già rôi, mắt kèm nhèm nên cũng nhìn rõ nữa, hay như bà nhìn nhầm. Và bà “hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn” và chính vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải. Và khi đã nhìn thật kỹ thì dường như bà đã hiểu ra biết bao những cơ sự được hiển hiện ra trước mắt. Bà như cảm thấy thương thấy như chua chat và thương con và thương cho người đàn bà lạ kia nữa. Vì có thể thấy giữa cảnh chết choc như ngả rạ, nạn đói hoành hành, khi mà cái ăn chẳng có, lại còn rước thêm người để đèo bòng như thế này bà không lo, không buồn sao được cơ chứ.
Bà dường như đã nghĩ đến cái cảnh người ta dựng vợ gả chồng cho con cái trong lúc ăn nên làm ra và dường như đằng này con trai bà lấy vợ trong cảnh bần hàn, thiếu thốn đủ đường thế này. Bà lão dường như đã thương mình bao nhiêu thì thương cho con gấp bội phần, bà cũng như đã cảm thấy tủi nhục khi không thể mang lại ấm no và hạnh phúc cho đứa con trai tội nghiệp. Bà cụ Tứ lúc này thương cho người đàn bà héo hon kia cũng vì cái đói đã làm ra như vậy. Và vì không còn gì nên mới theo Tràng về làm vợ. Chao ôi! Người đọc như đã đồng cảm với những suy nghĩ của bà cụ Tứ thật khiến người ta đau lòng, não nề. Và dường như nó đã khiến người ta xót thương nhưng chẳng biết cách nào có thể thương lấy bà, thương lấy những con người trong thời đại này.
Có thể thấy Kim Lân dường như đã rất thành công khi phác họa hình ảnh bà cụ Tứ đầy ám ảnh trong lòng người đọc đến như vậy.
Và hơn hết những diễn biến tâm lý của bà cụ Tứ cũng như đã thay đổi rất đột ngột, nhưng dường như ta thấy những sự thay đổi đó là tín hiệu đáng mừng chứng tỏ rằng bà đã chấp nhận người vợ “nhặt” của đứa con mình. Và điều đó nó cũng giống như việc chấp nhận sẽ gánh thêm cái khổ, gánh thêm cả cái đói, cái nghèo cùng với các con. Và dường như chính cái cách bà cụ Tứ dặn dò đôi vợ chồng trẻ thật khiến con người ta cảm phục “ Nhà ta nghèonên các con phải liệu mà bảo nhau làm ăn. Và ta như thấy khi anh Tràng bước dài ra sân, bà động viên nàng dâu câu nói chứa chan “ Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Rồi ra thì con cái chúng mày về sau.”. Ta như có thể thấy chính sự ân tình, chu đáo biết bao nhiêu của người mẹ nghèo dường như đã khiến đôi vợ chồng trẻ cảm động, và cũng như không biết nói gì hơn, bà đã chấp nhận “người vợ mới” của đứa con, và quan trọng bà đã chấp nhận cả cái đói nghèo mà gia đình bà mang.
Bà cụ Tứ như thật ân tình với con dâu, nói cho con dâu yên lòng rằng nhà nghèo, nếu có thì sẽ làm dăm ba mâm nhưng nhà mình nghèo nên bà đã động viên con dâu và con trai mình cố gắng. Chính những chi tiết này đã cho thấy sự đồng cảm giữa một người phụ nữ nghèo với một người phụ nữ nghèo. Ta như thấy chính sự gắn kết này sẽ mang lại một hơi ấm và sức sống cho gia đình sau này.
Ta như thấy được hình ảnh “nồi cháo cám” sau đêm tân hôn của con mà người mẹ này dường như đã mang đến thực sự khiến chúng ta cảm động đến rơi nước mắt. Và chính hình ảnh nồi cháo cám ấy không còn nguyên giá trị thực như nó vẫn mang, nó như chính là hiện thân của tình yêu thương con, một tình yêu thương con vô bờ bến. Người đọc thật không khó nhận ra đức hi sinh lớn lao của người mẹ nghèo dành cho những đứa con. Và cũng chính hình ảnh nồi cháo cám là chi tiết cực kỳ đắt giá của câu chuyện, ta như thấy được nhân phẩm và lòng vị tha, yêu thương của bà cụ Tứ cũng từ chi tiết này mà được nhân lên gấp bội, gấp vạn lần.
Hẳn người đọc sẽ không bao giờ quên đi hình ảnh bà cụ Tứ gắn với nồi cháo cám ở cuối truyện, bà kể toàn chuyện vui cho các con nghe và với hi vọng và mong muốn có một tương lai đỡ khổ, đỡ nhọc nhằn hơn. Và đó chính là một tình yêu đáng ngưỡng mộ trong hoàn cảnh khắc nghiệt. Hiện thực nghèo khó dường như không thể đánh gục được tình yêu thương giữa con người với con người với nhau.
Chỉ bằng bút pháp khắc họa diễn biến tâm lý sâu sắc, tác giả Kim Lân dường như cũng đã để lại trong lòng người đọc những dư âm khó phai về hình ảnh bà cụ Tứ nghèo đó nhưng vẫn ánh lên tình yêu thương đáng ngưỡng mộ. Bà cụ Tứ chính là hiện thân của những gì cao đẹp nhất, tốt nhất của một con người, một nhân cách.
Nguồn: Văn mẫu hay