Phân tích nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia của Vũ Trọng Phụng – Văn mẫu lớp 11
Đánh giá bài viết Phân tích nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia của Vũ Trọng Phụng – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên Văn trường THPT Chu Văn An Từ lâu nhiều người đã kể Số đỏ của Vũ Trọng Phụng vào hàng những tác phẩm xuất sắc của thể loại tiểu thuyết trào ...
Đánh giá bài viết Phân tích nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia của Vũ Trọng Phụng – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên Văn trường THPT Chu Văn An Từ lâu nhiều người đã kể Số đỏ của Vũ Trọng Phụng vào hàng những tác phẩm xuất sắc của thể loại tiểu thuyết trào phúng. Số đỏ như chính là hiện thân của nghệ thuật trào phúng trong văn xuôi Việt Nam. Với Số đỏ, ...
Phân tích nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia của Vũ Trọng Phụng – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên Văn trường THPT Chu Văn An
Từ lâu nhiều người đã kể Số đỏ của Vũ Trọng Phụng vào hàng những tác phẩm xuất sắc của thể loại tiểu thuyết trào phúng. Số đỏ như chính là hiện thân của nghệ thuật trào phúng trong văn xuôi Việt Nam. Với Số đỏ, người đọc được cười từ đầu đến cuối, cười một cách hả hê thoải mái. Nhưng cũng với Số đỏ người đọc phải phẫn uất mà kêu lên: Trời, cái xã hội gì, cái lũ người gì mà lừa dối, bịp bợm đến thế, bất nhân bạc ác đến thế.
Đọc Số đỏ, người ta nghĩ: đây đúng là đất sở trường của Vũ Trọng Phụng, đây thật là ngón võ sở trường của Vũ Trọng Phụng tác phẩm này, ngón võ ấy được sử dụng một cách cực kì lợi hại trong một chương, chương XV, có nhan để là Hạnh phúc của một tang gia.
Ngón võ ấy là ngón gì? Ấy chính là nghệ thuật tạo mâu thuẫn. Thật ra thì chẳng phải Vũ Trọng Phụng tạo ra mâu thuần. Mâu thuẫn vốn nó tự có trong bản chất xã hội, và nhà văn họ Vũ, với cái nhìn sắc như dao của mình, với cái lái của một nhà trào phúng bẩm sinh, đã nhận ra nó, chỉ nó ra, nâng nó lên cho cả bàn dân thiên hạ nhìn thấy, để cười, để căm ghét và khỉnh bỉ nó.
Cách đặt nhan đề chương sách của Vũ Trọng Phụng đã lạnh lùng, đầy mâu thuẫn: Hạnh phúc của một tang gia. Tang gia mà cũng hạnh phúc à? Tang gia mà cũng có thể hạnh phúc được ư? Cái chết, cái chết của người thân gia đình có thể đem lại cho người ta hạnh phúc được sao? Nếu chỉ đọc nhan đề, người ta có thể nghĩ là nhà văn đã bịa ra, bịa ra một cách ác ý sự kết hợp của hai khái niệm hoàn toàn đối lập ấy. Nhưng không, đó không phải là ác ý của nhà văn, đó là sự thật của đời sống, sự thật của một xã hội mà nhà văn muôn mổ xẻ ra để mọi người nhìn thấy nó tận mặt.
Mọi sự bắt đầu từ cái chết của một ông già. Ông già ấy là cha, là ông của một gia đình đông đảo và đáng kính của một xã hội thượng lưu. Cả gia đình ấy đã nhao lên, nhao lên mỗi người một cách. Nhao lên vì đau khổ, vì đau đớn, vì lo lắng trước cái chết của người thân chăng? Không phải, chúng đã nhao lên vì… hạnh phúc! Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng. Câu văn tưởng chừng ngược đời kia của Vũ Trọng Phụng đã thâu tóm cả một thứ thế thái nhân tình.
Nhận định ấy không hề là một sự bịa đặt cho vui cửa nhà văn. Sự thật rành rành rất cụ thể này đây: ông Phán mọc sừng, sau cái chết của ông bố vợ, bỗng thấy cái sự mọc sừng của mình đột nhiên tăng giá lên thêm vài nghìn đồng. Cụ cố Hồng sung sướng mơ màng đến cái lúc mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để được người ta ngợi khen một cái đám ma như thế một cái gậy như thế… Còn ông Văn Minh, cháu đích tôn, nhà cải cách xã hội Ông ta sung sướng tột đỉnh, bởi vì, với cái chết của ông nội, ông ta thấy rằng cái tờ di chúc đã được thực hiện, nghĩa là cái ao ước cho ông nội mình chết đi, để chia của, đã trở thành sự thật. Bà Văn Minh sung sướng theo đúng cách của một phụ nữ tân thời, bà ta nhận ra từ cái chết của ông nội chồng một dịp may hiếm có để có thể mặc tang phục tân thời, đồ xô gai tân thời, derniercs créations của tiệm may Âu hóa.
Tâm địa cái lũ người kia tưởng đến thế đã là tởm. Nhưng chưa hết. Đến đây, Vũ Trọng Phụng còn đẩy mâu thuẫn lên một tầng nữa. Bởi bọn con cháu bất hiếu bất mục nhất trần đời đó còn muốn tỏ ra mình là những kẻ có hiếu có thảo cũng nhất trần đời nữa kia. Thế là dưới ngòi bút của nhà vãn trào phúng, sư bịp bợm cao nhất, đáng phỉ nhổ nhất cũng bộc lộ ra. Những kẻ mong cho ông già mau chết đã tổ chức một đám ma thật to để bày tỏ lòng hiếu thảo, nghìn tiếc thương đối với người đã chết! Chính vì thế, ngòi bút của Vũ Trọng Phụng đã tập trung sức mạnh, như có thần, trong phần thứ hai của chương sách, nghìn là phần tả cảnh đám ma.
Trước hết, nhà văn tả cô Tuyết, một cô gái hư hỏng nhưng chỉ hư hỏng một nửa, một thứ thiếu nữ đang rất tiêu biểu trong xã hội tân thời ngày ấy. Tuyết mặc bộ tang phục ngây thơ nửa kín nửa hở, với nét mặt có vẻ buồn lãng mạn (vì nhớ nhân tình chứ không phải vì thương người chết) đã gây một hiệu quả lạ lùng: các vị tai to mặt lớn đi đưa đám chỉ nhìn vào vẻ khơi gợi của Tuyết, để mà cảm động, cứ như thực sự cảm động trước nỗi buồn tang tóc vậy.
Đám ma thật to, to đến nước có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng. Người ta đã lợi dụng đám ma đến mức cao nhất để khoe giàu khoe sang và khoe lòng hiếu thào giả vờ của mình! Nếu như mong muốn của tất cả đám con cháu của người chết kia là, trong đám ma này, đưa ra sự giả dối, bịp bợm đồng thời cũng là sự tàn nhẫn, bất nhân, đểu giả của mình lên đến mức hoàn toàn, thì quả thật chúng đã đạt được một cách trọn vẹn xuất sắc.
Nhưng chưa hết đâu, dưới mắt Vũ Trọng Phụng, cái lũ người giả dối không chỉ bao gồm một nhóm nhỏ ấy đâu. Chúng đông đảo lắm. Chúng là toàn xã hội.
Bắt đầu là đại diện bộ máy cảnh sát, nghĩa là đại diện của Nhà nước: thầy Min Đơ và thầy Min Toa. Tác giả đã nói đến vẻ mừng rở hí hửng của hai thầy khi được nhà chủ đám ma thuê làm người giữ trật tự. Lí do của sự mừng rỡ duy nhất chỉ là vì họ đang không có việc gì để làm, và đang buồn rầu như nhà buôn sắp vỡ nợ. Thứ đến là các vị tai to mặt lớn, Lớp tinh hoa của giới thượng lưu xã hội, mặt mũi long trọng, ngực đeo đầy đủ thứ bội tinh. Trong đám ma này, sự cảm động của họ không phải vì tưởng nhớ đến người đã khuất, cũng không vì tiếng kèn đưa ma não ruột bi ai, mà chỉ vì… được ngắm không mất tiền làn da trắng thập thò trong làn áo mỏng của cô Tuyết.
Sự xuất hiện của hai tên đại bịp trong dịp này lại khiến người ta cảm động đến cực điểm: Xuân Tóc Đỏ và sư cụ Tăng Phú. Vì sao? Vì với sáu chiếc xe kéo và những vòng hoa đồ sộ, hai kẻ này đã làm cho đám ma thêm long trọng, to tát. Đến bà cụ cố Hồng, có lẽ người lương thiện nhất trong cái gia đình vừa hư hỏng vừa đại bịp ấy, cũng cảm động đến hớt hải lên.
Những người đi đưa đám thật đông đảo. Bằng điệp khúc Đám cứ đi… được nhắc lại đến mấy lần, tác giả như muốn nói: đám ma thật là to, thật là đông, thiên hạ tha hồ mà chiêm ngường để thấy rõ sự to tát của nó. Nhưng cứ tìm thử xem trong đám người đông đảo ấy có ai là người đang thực sự đi đưa đám, nghĩa là thực sự có chút tiếc thương đối với người chết mà họ đang đưa tiễn? Không có ai cả. Tất cả mọi người đàn ông cũng như đàn bà, già cũng như trẻ, tuy đang giữ một vẻ nghiêm chỉnh, nhưng đều đang nói một điều gì đó, làm một điều gì đó, nghĩ một điều gì đó không dính dáng đến người chết và đám ma cả. Trai thanh gái lịch thì chim nhau, bình phẩm, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau.. nhưng tất cả đều bằng vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma.
Thật là nhẫn tâm, thật là vô liêm sỉ. Ta sẽ nghĩ thế. Nhưng với Vũ Trọng Phụng, có nghe được những lời mà bọn họ nói với nhau mới thấy sự vô liêm sỉ ấy còn trơ tráo đến mức nào. Và nhà văn đã đưa ra một số lời ấy.
Đám cứ đi… nghĩa là sự vô liêm sỉ ấy không hề khép lại, nó còn kéo dài.
Đến lúc đám không cứ đi nữa mà dừng lại để hạ huyệt. Vũ Trọng Phụng còn hiến cho người đọc hai chi tiết đặc sắc, đầy cảnh đưa đám này lên đến đỉnh điểm. Chi tiết thứ nhất là cảnh cậu Tú Tân bắt bẻ từng người một làm những động tác, giữ những tư thế đau buồn để cho cậu ta., chụp ảnh. Çhi tiết thứ hai là ông Phán mọc sừng, cái kẻ giả dối và vô liêm sỉ nhất trong gia đình này, đã khóc đến tưởng chừng ngất đi. Tuy vậy, giữa lúc oằn người khóc lóc, chính ông ta đã giúi vào tay Xuân Tóc Đỏ món tiền năm đồng vì đã có công gọi ông ta là người chồng mọc sừng (chính là cái công gián tiếp khiến cho ông già đã chết). Thật là những kịch sĩ thượng hạng của những tấn trò đời. Hai chi tiết ấy đóng lại một cách trọn vẹn và sắc sảo chương sách nói về sự giả dối của người đời.
Những điều Vũ Trọng Phụng viết trong chương sách là chuyện thật ư? Lẽ nào… Những điều ấy toàn là hư cấu ư? Nhưng những điều ấy đều hợp lí lắm mà, và hình như đều có thật cả. Ngòi bút Vũ Trọng Phụng đúng là sắc như dao. Đằng sau những lời nói như đùa, sự thật của đời sông cứ hiện ra lồ lộ trên đó nổi lên hai điều lớn nhất: sự tàn nhẫn và sự dối trá.
Phân tích nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia của Vũ Trọng Phụng – Bài làm 2
Số đỏ là cuốn tiểu thuyết trào phúng được viết theo khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa. Tác phẩm đã phát huy cao độ tài năng châm biếm, đả kích sắc sảo của Vũ Trọng Phụng. Khối căm ghét của ông đối với xã hội thối nát không còn là một lời chửi rủa tuyệt vọng nữa mà nổ ra thành một trận cười sảng khoái, có sức công phá mạnh mẽ tung vào giữa những cái lố bịch, kệch cỡm của xã hội đương thời.
Dưới ngòi bút kì tài của Vũ Trọng Phụng, chương nào, đoạn nào cũng thú vị, hấp dẫn như một màn hài kịch trọn vẹn. Đặc biệt nhất là chương Hạnh phúc của một tang gia.
Ý nghĩa châm biếm gửi cả trong cái tên của chương truyện. Một gia đình có tang, thậm chí đại tang ắt phải tiếc thương, sầu não đến bực nào, ấy vậy mà lại hạnh phúc?! Mới nghe có vẻ ngược đời nhưng suy ngẫm kĩ trong hoàn cảnh cụ thể của gia đình này thì điều ấy lại chận thực, hợp lí.
Ở đám tang cụ Tổ, ai cũng vui như tết con cháu, cháu chắt, họ hàng thân thích, người quen biết.,, cũng thấy đây là một dịp may hiếm cổ để mình thỏa mãn một nguyện vọng, hay một ý đồ nào đó.
Vũ Trọng Phụng vạch rõ chân tướng nhố nhăng, lố bịch của những hạng người mang danh là thượng lựu, quý phái, văn minh tân tiến nhưng thực chất là những cặn bã, quái thai của cái xã hội dở Tây dở ta buổi ấy.
Trong chương này, tác giả đã xây dựng thành công một tình huống điển hình để bộc lộ những tính cách đặc sắc. Trước hết phải nói đến thái độ của những kẻ có quan hệ ruột rà với cụ Tổ.
Cái chết của cụ chẳng làm cho đứa con, dứa cháu nào tiếc thương bởi đã từ lâu, họ mong cụ chết cho nhanh để chia gia tài. Ngược lại, cái chết của cụ đã đem đến cho họ một niềm vui to lớn không che giấu nổi – một hạnh phúc: Cái chết đã làm cho nhiều người sung sướng lắm. Bọn con cháu vô tâm cũng vui sướng thỏa thích… Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phổ, gọi phường kèn, thuê xe đám tang… Tang gia ai cũng vui vẻ cả…
Cậu Tú Tân, cháu nội cụ Tổ rất hào hứng, phấn khởi vì cậu có dịp trổ tài và sử dụng mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến. Vợ Vãn Minh (cháu dâu) mừng rỡ vì sẽ dược mặc đồ xô gai tân thời và đội cái mũ mẩn trắng viền đen… để quáng cáo cho một kiểu đồ tang mới lạ.
Còn người con trai của cụ Tổ sung sướng vì một lý do khác lớn hơn. Cụ Cố Hồng mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ bình phẩm, ngợi khen úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kìa kìa.
Văn Minh (cháu nội), đã từng du học tận bên Tây bao năm, về nước không có nổi một mảnh bằng, chỉ nhăm nhăm nghĩ tới chuyện chia gia tài thì thích thú ra mặt vì cái chúc thư kia đã vào thời kì thực hành chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa. Riêng người cháu rể (Phán mọc sừng) thì khấp khởi, sướng rơn trong bụng vì đã được bố vợ nói nhỏ vào tai rằng sẽ chia thêm một sổ tiền vài trăm nghìn đồng. Chính ông không ngờ ràng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến thế! Không khí của đám ma là không khí của một ngày hội. Đây cũng chính là mâu thuẫn trào phúng gây cười ra nước mắt, xuyên suốt hoạt cảnh này.
Đám ma rất to, to chưa từng thấy ở đất Hà Thành xưa nay. Có đủ cả kiệu bát cống, lợn quay… đi lọng, vài ba trăm câu đối, bức trướng, vòng hoa phúng điếu, vài trăm người đi đưa nghiêm nghị thành kính đi sát ngay sau linh cữu cụ Tổ trong đủ thứ tiếng kèn huyên náo kèn Ta, kèn Tây, kèn Tàu, có cả âm thanh chói tại, rộn rã của lốc bốc xoảng và bu-xích…
Đám ma trở thành dịp may hiếm có để trưng bày và quảng cáo các mốt quần áo Âu hóa mới nhất của tiệm may vợ chồng Văn Minh – sản phẩm độc đáo của nhà thiết kế mĩ thuật Typhono. Đó là cô Tuyết với bộ y phục ngây thơ khá hở hàng với nét mặt cố tạo một vẻ buồn lãng mạn, rất đúng mốt một nhà đám, khiến cho bao nhiêu vị khách đàn ông khi trông thấy làn da trắng thập thò trong làn ảo voan trên cánh tay và ngực Tuyết phải xúc động còn hơn nghe tiếng kèn đám ma. Đó là bộ đồ tang đã được cách tân của vợ Văn Minh làm cho mọi người phải xuýt xoa, trầm trồ…
Ngoài những thân nhân của người quá cố phải nói đến dám bạn bè, quan khách của tang chủ, những kẻ đi đưa đám không phải để chia buồn mà cố khoe các thứ huy chương, mề đay đeo đầy ngực và các kiểu râu ria tân thời nhất. Hoặc là đám phụ nữ quí phái, đám giai thanh gái lịch đang đeo đuổi, học đòi phong trào Âu hóa, vừa, đi đưa ma vừa cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, hẹn hò nhau… Và mỉa mai thay, họ làm tất cả những điều đó bàng vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma .Điều đó chứng tỏ họ hoàn toàn dửng dưng với người chết, tất cả đều thản nhiên, vui vẻ và dối trá.
Người dân hai bên đường đổ xô ra xem đám ma như xem một sự lạ. Đám ma to đến nỗi những người trong tang gia cảm thấy hết sức sung sướng và hàng phố nhốn nháo cả lên khen đám ma to. Nhà văn. lạnh lùng bình luận: Đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài củng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu. Thật là mỉa mai, chua chát!
Đắng sau cái phô trương, cố làm ra vẻ long trọng, danh giá ấy là sự rởm đời đến mức lố lăng, là thói háo danh vô lí, của bọn người giàu sang, hãnh tiến và vượt lên tất cả là thói đạo đức giả, tự lí(a mình và lừa người mà xã hội thời ấy mặc nhiên công nhận.
Song song với việc mô tả hình thức đám ma với đủ các nghi thức trọng thể, Vũ Trọng Phụng không quên đi sâu thể hiện, phanh phui mặt trái của nó. Ngòi bút sắc sảo của nhà văn trưng lên liên tiếp những bức biếm họa trước mắt người đọc, để rồi giúp người đọc nhận ra rằng cái đám ma to tát ấy chỉ thiếu một cái duy nhất mà cũng quan trọng nhất của đám ma – đó là tình người. Thiếu lòng thương tiếc chân thành đối với người đã khuất thì tất cả những hình thức lòe loẹt, om sòm kia đều trở thành vô nghĩa, thành trò cười cho thiên hạ. Những kẻ có mặt trong đám ma giông nhau ở chỗ đều giả dối và vô đạo đức.
Xuân Tóc Đỏ xuất hiện, đẩy sự lố lăng, dị hợm của đám ma cụ Tố lên tới đỉnh cao. Hắn chọn đúng lúc để có mặt, trước sự chú ý của mây trăm con người và gây ân tượng mạnh với hai vòng hoa đồ sộ, sáu chiếc xe kéo sang trọng và một đám sư, cùng loại sư của báo gõ mõ. Điều này khiến cho cụ Phán bà càng thêm sung sướng: giá không có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi, và cô Tuyết người yêu của hắn cũng phải cảm động mà liếc mắt đưa tình với hắn.
Mấy chi tiết đặc tả cảnh hạ huyệt càng mỉa mai, trào phúng. Nó được dàn dựng như một vở kịch mà bàn tay đạo diễn quá ư lộ liễu, trắng trợn. Cậu Tú Tân bắt từng người phải chông gậy, gục đầu, cong lưng, lau mắt… để cậu chụp ảnh, trong khi bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mả mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau. Chất bi hài của cảnh khiến người đọc cười ra nước mắt. Chỉ có một tiếng khóc lớn nhất bật lên là của ông Phán mọc sừng. Ông oặt người đi, khóc mãi không thôi và tiếng khóc của ông thật đặc biệt: Hứt! Hứt! Hứt!… Ông thương cho người đã khuất chăng? Không phải! Ông đang đóng kịch trước mặt mọi người. Thực ra ông ta rất mừng vì cụ Tổ chết và ông được chia phần khá nhiều, kể cả cái giá của bộ sừng mà vợ ông đã cắm lên đầu ông. Miệng khóc, tay ông dúi nhanh vào tay Xuân Tóc Đỏ tờ bạc năm đồng gấp làm tư để trả công hắn đã gọi ông là Phán mọc sừng trước người nhà vợ. Và cũng nhờ đó mà ông có thêm được món tiền lớn.
Qua chương Hạnh phúc của một tang gia, Vũ Trọng Phụng bộc lộ xuất sắc tài kể chuyện của mình. Bút pháp của Vũ Trọng Phụng giỏi ở chỗ phóng đại mà như không phóng đại, làm cho mọi việc đều như thật và hơn thật. Ồng chú ý đến các mâu thuẫn giữa hiện tượng và bản chất, khai thác triệt để nhằm gây nên những tràng cười có ý nghĩa phê phán sâu sắc. Cảnh đám ma hiện ra như một màn hài kịch sinh động hay như một bức biếm họa khổng lồ và chi tiết về cái xã hội tự cho là thượng lưu, sang trọng ở Hà Nội thời đó đang phơi bày tất cả cái bản chất lố lăng và đồi bại của nó.
Phân tích nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia của Vũ Trọng Phụng – Bài làm 3
Tác giả Vũ Trọng Phụng (1912-1939) quê ở Hà Nội được nhà văn Ngô Tất Tố nhận định là nhà văn sinh ra trong gia đình “ nghèo truyền kiếp”. Khi nhắc tới Vũ Trọng Phụng người ta lại nghĩ ngay tới con người đi đầu theo nghệ thuật trào phúng.trong số các tác phẩm trào phúng thì “ Xuân Tóc Đỏ “ là một cái tên không thể không xướng lên. Và đoạn trích cực kì xuất sắc “hạnh phúc của một tang gia”là một ví dụ điển hình cho nghệ thuật trào phúng… Đọc đoạn trích, chúng ta có thể cười tới chảy nước mắt, cười một cách thoải mái nhưng chính tại đoạn trích này mà chúng ta lại nhận ra những hàm ý sâu sắc của tác giả và cũng cảm thấy thật sự bi ai cho một xã hội cũ đầy giả dối, lừa lọc và toan tính giữa con người với con người. Giữa cái giao thoa của văn hóa những cái xấu lại bắt đầu nảy mầm và manh nha trong đời sống của nhân dân.
Trào phúng là cách mà tác giả đưa ra các tình huống hay chi tiết gây cười, khiến cho độc giả khiến cho độc giả có thể cười một cách thả ga. Nhưng đằng sau tiếng cười ấy là một sự mỉa mai chua chát .Có thể đó là những mâu thuẫn về hình thức và nội dung, cũng có khi là giữa hiện tượng được phơi bày và bản chất của nó. Các nhà trào phúng là phải tìm được những mâu thuẫn ấy rồi đưa vào trong những tác phẩm của mình và mâu thuẫn của mình càng đáng cười để phê phán, lên án xã hội cũ nát.
Dưới ngòi bút của ông vua phóng sự đất Bắc, hình ảnh của một xã hội đã được thu nhỏ và thể hiện cực kì rõ nét trong tác phẩm của ông. Sự trào phúng bắt nguồn từ nhan đề của mở đầu đoạn trích, ngay từ tiêu đề của tác phẩm chúng ta đã thấy được cái sự trái ngang ấy. Trong một đám tang, đáng lẽ mọi người phải đau khổ, buồn bã thì ở đây, mọi người lại cảm thấy vui vẻ, trái với lẽ thường hay sao? Thế nhưng không. Trong xã hội thời kì phức tạp ấy, nhà văn đã tập trung xây dựng hình ảnh của nhân vật Xuân tóc đỏ bằng phương pháp hiện thực chủ nghĩa xã hội.
Trong “ số đỏ” thì Xuân tóc đỏ là một kẻ lưu manh, ngoài đầu đường xó chợ chỉ toàn nhặt bóng làm nghề nhưng với sự lanh lợi và ranh mãnh của mình thì Xuân bắt đầu tiếp xúc xã hội thượng lưu, Xuân còn nhiều rụt rè, bỡ ngỡ. Sau này, nhờ vào việc dâm đãng với bà phó Đoan mà y đã có thể bước chân vào thế giới này chỉ nhờ những mánh lừa lọc hết người này tới người khác.
Xã hội thượng lưu thời bấy giờ chỉ là cái tên do những kẻ không biết quý trọng thời gian và lao động tạo ra thôi, là một xã hộ thối tha và bịp bợm. Xuân đã phát huy tất cả bản tính vốn có của mình, như cờ gặp gió, như cá gặp nước. Rõ ràng, đời Xuân thật là “số đỏ”.
Tang gia ở đây là một đám tang người thân nào đó trong gia đình đã mất người trong gia đình lẽ ra phải buồn bã, đau thương. Thế nhưng mọi thứ lại đi ngược lại giá trị vốn có của nó. Mọi người lại hạnh phúc và cảm thấy sung sướng mọi thứ đều có sự mâu thuẫn. Mâu thuẫn ấy được tác giả khuếch đại lên để lên án, phê phán xã hội chạy theo vật chất mà quên đi tình cảm của con người với nhau.
Tác giả đã tập trung miêu tả niềm vui của những người trong gia đình. Cả gia đình đang rất vui vẻ vì cả nhà đã chờ đợi, hi vọng vào cái chết của cụ cố tổ từ rất lâu rồi và cho tới hôm nay, một cách vô tình của Xuân tóc đỏ mà điều ước ấy đã trở thành sự thực. Vì thế mà tác giả đã mở đầu đoạn trích bằng một câu văn rất sâu cay và đầy đau đớn “ 3 hôm sau ông già chết thật” vì tất cả mọi người đều mong nhận được khối tài sản được chia. Cụ cố Hồng có niềm vui rất lạ, dù chỉ mới 50 tuổi nhưng chỉ thích được gọi là cụ cố, chỉ mong mình được già. Vì vậy, cụ cố Hồng rất mong bố chết để được lên ngôi thành cố tổ. Khi ai nấy hỏi gì cố Hồng cũng đều trả lời "Biết rồi, khổ lắm, nói mãi". Trong lúc tang gia bối rối, ông con trai cả lặp đi lặp lại câu nói trên đến 1872 lần. Đã bao nhiêu lần cố Hồng tập dượt khóc trước gương chờ ngày bố chết để thiên hạ phải trầm trồ khen rằng con trai lớn đã già đến thế kia kìa. Chỉ để nghe 1 câu nói ấy, cố Hồng sẵn sàng chờ cho bố chết.
Phải kể đến đó là vợ chồng Văn Minh và ông Typn. Ông Typn sung sướng vì nhân dịp chết của cụ tổ được tung ra mốt tang táo bạo, để báo chí Bắc Nam đến đưa tin,. Vợ chồng Văn Mình coi ngày chết của cụ tổ như 1 sàn diễn, 1 dịp để quảng bá, để làm ăn kinh tế
Ngoài ra, người hạnh phúc tiếp theo phải kể đến đó là cô Tuyết. Trước ngày cụ chết, Tuyết bị lộ thông tin là hẹn giai ra nhà nghỉ. Cả gia đình đang lo tin cô Tuyết hư hỏng loang ra khắp thành phố, đang lúng túng, bối rối thì cụ chết thật. Họ đã biến cái bối rối của cô Tuyết thành cái bối rối của tang gia. Trong tang gia này Tuyết cũng ăn mặc từ cái áo hở trong hở ngoài đến cái mũ mấn xinh xinh để chứng minh cho thiên hạ thấy rằng Tuyết mới mất nửa chữ trinh. Khuôn mặt Tuyết cứ ngây thơ, buồn lãng mạn. Cứ tưởng Tuyết buồn cho người quá cố nhưng cô đang buồn như sự hờn giận: Sao nhà có việc quan trọng thế này mà người tình mãi chẳng đến.
Và cuối cùng ta cũng không thể bỏ qua một người hạnh phúc khác đó là cậu Tú Tân. Cậu mong ngày cụ chết để được chụp ảnh bởi cái máy ảnh bấy lâu nay chưa có cơ hội để dùng. Cậu Tú Tân trổ tài, lăng xăng như 1 nhà đạo diễn,
MỌi người ai cũng đang bối rối nhưng lại bối rối để tổ chức 1 đám tang thật thịnh soạn, thật lịch sự mà không phải bối rối với người đã mất. Nhưng có lẽ người hạnh phúc nhất trong này đó là ông Phán mọc sừng. Ông Phán không ngờ rằng cái đôi sừng vô hình của mình lại đáng giá đến vậy.
Những hình ảnh và chi tiết trong tác phẩm mà nghệ thuật trào phúng đã đạt đến đỉnh cao. Mọi người như đang diễn vai của mình thật chuẩn nhưng đằng sau đó là biết bao tính toán Trong một gia đình toàn những con người ruột thịt với nhau mà lại đối xử như vậy thì thử hỏi cả xã hội này sẽ trở nên như thế nào.qua đây càng nhấn mạnh và khẳng định nghệ thuật tròa phúng cũng như tài năng của Vũ Trong Phụng.
Phân tích nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia của Vũ Trọng Phụng – Bài làm 4
Xuất hiện trên văn đàn chỉ chừng bảy, tám năm song Vũ Trọng Phụng đã đóng góp một phần rất to lớn cho văn học Việt Nam. Tác phẩm Số đỏ của ông được coi là tác phẩm xuất sắc nhất trong dòng văn học hiện thực phê phán, được Nguyễn Khải đáng giá là tác phẩm độc nhất vô nhị, có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học.
Nếu số đỏ là một vỡ đại hài kịch trong đó Vũ Trọng Phụng muốn ném cái nhìn khinh bạc, giễu cợt cái xã hội lố lăng, rớm đời, coi đồng tiền hơn hết thảy, mọi giá trị đạo đức đều bị lưu mờ thì từng chương truyện lại là một trích đoạn kịch nói rõ hơn, bổ sung thêm thái độ của nhà văn. Đặc biệt trong chương XV, trích đoạn Hạnh phúc của một tang gia đã phần nào cho ta thấy nghệ thuật trào phúng bậc thầy của ông.
Có thể thấy ngay rằng, tiếng cười trao phúng bật ngay từ nhan đề chương trích đoạn Hạnh phúc của một tang gia. Tang gia là gia đình có người mất, đó phải là một tổn thất lớn trong gia đình ấy. Còn hạnh phúc là niềm sung sướng, vui sướng tột cùng, tột độ khi mong ước bao lâu nay thành hiện thực. Ngay từ nhan đề, ta và tác giả hoàn toàn ngạc nhiên với gia đình ấy, nhà có tang mà ai ai cũng đều vui vẻ cả, thỏa mãn với điều đó. Vũ Trọng Phụng đã rất cẩn thận khi lựa chọn từng chi tiết trào phúng. Nào là con cụ tổ là cụ cố Hồng không hề buồn bã, tiếc thương cho cụ mà đang mơ màng nghĩ đến cảnh lụ khujb mặc đồ xô gai, chống gậy, ho khạc khiến mọi người đến đưa đám phải xì xào "Uí kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa", tức là gia đinh này chắc hẳn phải có phúc lắm. Rồi đến con dâu bà cố Hồng thì sung sương khi nghĩ rằng đám ma này là đám ma to nhất Hà Thành. Nhà văn đưa người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, từ vui vẻ, mãn nguyện lan truyền từ con đến cháu, đến mọi người trong gia đình. Vợ chồng Văn Minh thì hạnh phúc vì có dịp lăng xê những bộ trang phục mới nhất. Ông Typn có cơ hội xin ý kiến mọi người đánh giá về trang phục của mình như thế nào. Cậu cháu đang mong muốn chờ đến ngày đưa đám để cậu có dịp sử dụng đến cái mái ảnh đã chuẩn bị sẵn từ lâu. CÔ Tuyết có dịp trình diện kiểu mẫu với trang phục "Ngây thơ" khẳng định với mọi người rằng mnhf mới mất một nửa chữ trinh. Từ khi cụ tổ mất, thằng Xuân Tóc Đỏ – ông đốc tờ Xuân trở thành một người quan trọng "thiếu nó là thiếu tất cả". Còn ông Phán thì quên đi nỗi nhục mọc sừng mà tính ngay với Xuân một cuộc doanh thương. Tất cả các thành viên trong gia đình đều tất bật chuẩn bị chu đáo nhưng đó là sự tất bật của một lũ con cháu đại bất hiếu của gia đình đại vô phúc, chuẩn bị cho một đám rước chứ không phải một đám ma. Với nghệ thuật trào phúng đặc sắc của nhà văn, người đọc có thể phần nào cảm nhận được những lố lăng đồi bại của gia đình cụ tổ nói riêng và cái xã hội ngày trước nói chung.
Ngôn ngữ và giọng điệu tác giả sử dụng hết sức biến hóa, chuyển giọng liên tục, đưa người đọc đến hết bất ngờ này đến bất ngờ khác. Phải nói rằng tiếng cười trào phúng của Vũ Trọng Phụng hết sức độc đáo, nó là tiếng cười đa thanh đa giọng. Nào là đám ma đi đến đâu mọi người cũng phải đỗ ra xem, đám ma này hết sức hổ lốn, kèn ta, kèn Tây, kèn Tàu lẫn lộn, có kiệu bát cống… Đám ma to thật to, to lớn đến nổi người năm trong quan tài cũng phải sung sướng nếu không gật gù cái đầu. Nhưng cụ tổ sẽ rất đau buồn nếu như biết rằng đám ma to thật đấy nhưng không ai trong gia đình, con cái họ hàng thân thích lại nghĩ đến cụ, thương xót cho cụ.
Tất cả những chi tiết, tình huống trào phúng đều được Vũ Trọng Phụng thu gọn trong ống kính phóng sự của mình. Với biệt tài châm biếm sắc sảo, đẩy đối tượng phung trào lên mức không tưởng tượng được, nhà văn đã cho ta thấy, tất cả xã hội ấy đều quay cuồng trong cơn lốc âu hóa, một bức tranh xã hội hiện thực đen tối. Đồng tiền chi phối, hủy hoại hết mọi tình cảm thiêng liêng của con người. Ông Phán mọc sừng vui sướng cảm ơn thằng Xuân Tóc Đỏ chỉ vì câu nói "Thưa ngài, ngài là một ông chồng mọc sừng" đã làm cho cụ tổ chết, ngã lăn ra, thỏa ước nguyện lâu nay của mọi người vì từ nay cái chúc thư kia đã đi vào thời kỳ thực hành không còn là lý thuyết suông nữa. Cũng chính vì vậy mà ông Phán và vợ được thêm tiền do ông cố Hồng cân nhắc khi chia tài sản.
Mọi người trong đám ma ai cũng có một thái độ "thương xót" cụ tổ, người đâm đâm chiêu chiêu, người thì thần người ra, có vẻ rất đúng mốt của người đang có tang.
Thật trớ trêu và lạ lùng, vì cụ tổ không chỉ mang lại niềm vui trong gia đình mà còn mang lại hạnh phúc cho người ngoài nữa. Hai viên cảnh sát Min Đơ và Min Toa đang không có việc được thuê thì vui sướng hết lòng hết sức, tận tâm cho công việc. Mọi người đến dự đám ma có dịp khoe tất cả những gì họ muốn khoe. Báo Gõ mõ, Chấn hưng Phật giáo được dịp phô trương thanh thế. Như vậy đấy, xã hội ngày trước của nước ta như vậy đấy, lố lăng rởm đời, đồi bại và có thể nói là bẩn thiểu hết sức tưởng tượng.
Đám ma cứ đi, đi đến gần tới mồ huyệt và dường như chúng ta và tác giả đều mong muốn rằng tất cả những cái gì xấu xa nêu trên sẽ đi đến mồ chôn của nó. Nếu như Banzắc trong Lão Gôriô đã từng nói tới cái bi thì giờ đây đến Số đỏ của Vũ Trọng Phụng cái bi đã trở thành cái hài, bật ra tiếng cười trào phúng. Tiếng cười trào phúng ấy bề ngoài có thể là hả hê, sung sướng, mỉa mai nhưng thực chất bên trong ẩn giấu nỗi niềm đau đáu của tác giả. Qua tác phẩm Số đỏ và nghệ thuật trào phúng của ông, ta thấy tấm lòng của nhà văn trước xã hội, buồn nhưng lên án, đã kích kịch liệt. Tác giả đã xây dựng lên những chân dung biếm họa, những con rối gây cười. Thằng Xuân bất tài vô học, có thể ngoi lên thành đốc tờ Xuân, lên địa vị cao trong xã hội cũng là vì xã hội ấy rất cần những người có tính cách như nó, một xã hội kim tiền.
Quả thật Vũ Trọng Phụng đã thể hiện tài năng đặc biêt của mình qua nghệ thuật trào phúng xuất sắc. Hạnh phúc của một tang gia đã chứng minh nhà văn thật đặc biệt kiệt xuất.
Phân tích nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia của Vũ Trọng Phụng – Bài làm 5
Là một nhà văn xuất sắc của nền văn học hiện thực phê phán, Vũ Trọng Phụng không chỉ là Ông vua phóng sự đất Bắc mà còn là một cây bút trào phúng đặc sắc nhất. Mỗi chương trong tác phẩm là một màn hài kịch. Chương XV Hạnh phúc một tang gia là màn hài kịch tiêu biểu.
Hiệu quả trào phúng của đoạn trích Hạnh phúc một tang gia tạo lên bởi sự phát huy hiệu quả của hàng loạt các yếu tố trào phúng: mâu thuẫn trào phúng, những chân dung trào phúng. Những lời văn, giọng điệu trào phúng. Không có chi tiết nào không hướng tới mục đích bóc trần những sự lố lăng trong tang gia tràn trề hạnh phúc này.
Để dàn dựng màn hài kịch nhà văn trước hết đã phát hiện ra mâu thuần trào phúng. Mâu thuẫn trào phúng trong chương truyện này được gợi ra trước hết ở cái tên của nó: Hạnh phúc một tang gia. Tang gia và hạnh phúc là hai căn từ ngữ đối nhau. Nói đến tang gia là nói đến một gia đình vừa có người thân mất. Theo quy luật tâm lí thông thường hẳn tang gia phải bao trùm cái không khí khổ đau, sầu thương não nề bời mỗi khi một ngọn nến đời tắt đi là để lại bao vết thương cho người sống. Vậy mà trong tang gia của một gia đình được xem là danh giá nhất Hà thành, trước cái chết của một người Ông, người cha (cụ tổ) chẳng đứa con cháu nào của cụ sầu não, tiếc thương cả. Trái lại, cái chết ấy như đã đm đến một nguồn hạnh phúc to lớn không nén nổi cứ tuôn ra, trào ra.
Tang gia mà hạnh phúc. Đó là chuyện là đời nhưng lại có thật. Vì sao cái chết của cụ tổ lại là hạnh phúc của cái tang gia đại bất hiếu này? Ấy là vì cụ tổ có một gia tài kếch xù. Bao ngày lũ con cháu hau háu trông đợi phần mình. Cụ cố Hồng chưa có dịp tỏ ra sự rộng rãi và biết điều của mình đối với bầy con trai, con gái, dâu, rể… Họ từng muốn giết chết cụ bằng bài thuốc Thánh nhưng cụ vẫn chưa chịu chết. Bây giờ mơ ước trở thành sự thực lẽ nào họ không vui. Cũng như Vũ Trọng Phụng nhận xét: Tang gia ấy ai ai cũng vui vẻ cả hoặc cái chết ấy làm cho nhiều người sung sướng lắm.
Mâu thuẫn trào phúng không chỉ thể hiện ở tâm trạng mong cụ tổ chóng chết hay ở không khí chuẩn bị tang lễ mà còn thể hiện rõ nét ở hình thức tổ chức đám tang. Có thể nói âm điệu bi thương lẽ ra phải có ở một đám tang đã thay thế bằng âm điệu náo nức phấn khởi. Nhà văn đã nêu lên một giả định có ý châm biếm chua chát: Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu. Quả là ở thời buổi nhố nhăng này người ta đã quen sống trong sự lừa dối, rất thich lừa dối và thật sự hài lòng khi bị lừa dối.
Trong màn hài kịch này còn có một chi tiết đặc sắc nữa tô đậm mâu thuẫn trào phúng đã nói. Đó là khi cụ tổ chết, người ta quan tâm việc mai táng cái xác chết ấy thì ít mà lo lắng bàn bạc việc chôn cái xác sống của cô Tuyết cùng cai tiếng hư hỏng của cô thì nhiều. Đám tang bị trì hoãn là vì thế. Người ta còn bận thu xếp cho êm ả chuyện cô tiểu thư hư hỏng, còn bận bịt tiếng xâu xa có thể làm tổn hại đến danh giá tang gia.
Trong khi quan tâm tô đậm mâu thuẫn trào phúng, Vũ Trọng Phụng còn 1 đồng thời vẽ lên nhiều bức chân dung trào phúng đặc sắc.
Trước hết là cụ cố Hồng với câu nói cửa miệng: Biết rồi, khổ lẩm, nói mãi. Xưa nay cụ mới chỉ được diễn trò già yếu ở nhà, giờ cụ được ra mắt trước đám đông: Cụ cố Hổng đã nhắm nghiền mắt lại mơ màng đến lúc cụ mật đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: úi giời ơi, trai lớn đã già đến thế kia kìa.
Cô Tuyết thì sung sướng được mặc bộ y phục ngây thơ – cái áo voan mỏng với cái tráp trầu cau và thuốc lá mời khách với vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt.
Thật đáng cười cho chân dung trào phúng của ông Phán mọc sừng, ông là kẻ vớ bở nhờ cái chết của cụ tổ. Có vẻ như nhờ thế mà ông bộc lộ nồi đau xót cùa mình một cách ồn ào hơn ai hết: ông oặt người khi khóc mãi không thôi: Hứt. Hứt!. Nhưng trào phúng thay khi ông Phán dúi vào tay Xuân tờ bạc năm đồng. Màn kịch của ông Phán bị lột trần.
Đây cũng là dịp may hiếm có để tiệm may Âu hóa và ông Typn có thể lăng xê những mốt trang phục mà có thể ban cho những ai có tang thương đau đớn vì kẻ chết cũng được chút ít hạnh phúc ở đời.
Cậu tú Tân thì mừng quá và đang điên người lên vì đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mãi mà không được dùng đến.
Còn Xuân Tóc Đỏ càng vênh váo vì nhờ hắn mà cụ Tổ lăn đùng ra chết.
Hạnh phúc lan tràn cả ra ngoài gia đình người chết: Hai viên cảnh sát Min Đơ và Min Toa đang thất nghiệp bỗng được thuê giữ trật tự… Bạn bè cụ cố Hồng có điều kiện khoe khoang sự oai vệ của mình…
Một trong những nét đặc sắc của ngòi bút trào phúng Vũ Trọng Phụng là sự thể hiện đám đông. Tác giả lùi ống kính thật xa quay toàn cảnh đám tang với điệp khúc đám cứ đi. Có khi tác giả lại quay cận cảnh để vạch trần bản chất nhố nhăng giả tạo của đám tang này. Vũ Trọng Phụng đã thể hiện ngôn ngữ trào phúng khi miêu tả một số kiểu râu ria của các cụ: Có cụ râu lún phún rầm rậm, có vị râu hung hung, lại có vị râu loăn xoăn… Các cụ ấy đã thực sự cảm động vì làn da trắng nơi ngực và cánh tay cô Tuyết. Đến đưa ma cụ tổ phần đông là trai thanh gái lịch đất Hà thành ngàn năm văn hiến, đến với đám cốt để chim nhau, hò hẹn nhau… nói với nhau đủ chuyện hàng ngày, cho nên đám ma đông là thế, ồn ào náo nhiệt là vậy.
Nghệ thuật trào phúng bậc thầy của Vũ Trọng Phụng còn hiện ra ở giọng điệu trong chương truyện. Nhà văn sử dụng giọng kể dửng dưng, giễu cợt, thậm chí bằng những lời ác khẩu. Luôn luôn có sự khập khiễng giữa sự vật được nói tới với giọng điệu câu văn: Ông già hơn tám mươi tuổi phải chết một cách bĩnh tĩnh Bầy con cháu chí hiếu chỉ nóng ruột đem chôn cho chóng cái xác chết cụ tổ; điệp khúc đám cứ đi…, tiếng khóc cũng nhại lại đầy sự châm biếm: Hứt!.. Hứt… Hứt!.
Tất cả những thành công đó chỉ có được ở cây bút trào phúng bậc thầy của Vũ Trọng Phụng một xã hội nhố nhăng thị thành hiện lên chân thực sinh động. Nhà văn đã bóc trần bản chất xấu xa, thói lừa bịp rởm đời chạy theo lối sống thị thành của hàng loạt người. Ngòi bút châm biếm của ông có sức mạnh ghê gớm bắt nguồn tư chính sự phẫn uất của ông trước xã hội thực dân phong kiến – xã hội mà ông gọi là chó đểu:
Bằng tài năng, nghệ thuật trào phúng bậc thầy, qua việc tả người, dựng cảnh, sử dụng các chi tiết nghệ thuật biếm họa chân dung, ngôn ngữ hài hước… Chương truyện Hạnh phúc một tang gia như một làn roi quất mạnh vào xã hội thượng lưu tiểu tư sản thành thị hết sức lố lăng, đồi bại, nổi bật là sự giả dối. Đám tang của cụ tổ là cuộc hành quân đi xuống mồ chôn của xã hội chó đểu này.