Phân tích hình tượng nhân vật Hoạn Thư qua đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du – Văn mẫu lớp 9
Đánh giá bài viết Phân tích hình tượng nhân vật Hoạn Thư qua đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn Thành phố Hải Phòng Trước lời nói, thái độ của Kiều, lúc đầu Hoạn Thư cũng hồn lạc, phách xiêu nhưng vẫn kịp liệu ...
Đánh giá bài viết Phân tích hình tượng nhân vật Hoạn Thư qua đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn Thành phố Hải Phòng Trước lời nói, thái độ của Kiều, lúc đầu Hoạn Thư cũng hồn lạc, phách xiêu nhưng vẫn kịp liệu điều kêu ca. Đây quả là con người khôn ngoan, giảo hoạt. Trước hết Hoạn Thư dựa vào tâm lí ...
Phân tích hình tượng nhân vật Hoạn Thư qua đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn Thành phố Hải Phòng
Trước lời nói, thái độ của Kiều, lúc đầu Hoạn Thư cũng hồn lạc, phách xiêu nhưng vẫn kịp liệu điều kêu ca. Đây quả là con người khôn ngoan, giảo hoạt.
Trước hết Hoạn Thư dựa vào tâm lí thường tình của người phụ nữ để gỡ tội:
Rằng tôi chút phận đàn bà
Ghen tuông thì cũng người ta thường tinh.
Lí lẽ này đã xóa đi sự đối lập giữa Kiều và Hoạn Thư, đưa Kiều từ vị thế đối lập trở thành người đồng cảnh, cùng chung chút phận đàn bà. Nếu Hoạn Thư có tội thì cũng là do tâm lí chung cùa nữ giới:
Lòng riêng riêng những kính yêu,
Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai.
Đã là phụ nữ thì không mấy ai dễ dàng chấp nhận chia sẻ chồng mình cho người khác và Hoạn Thư cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Từ tội nhân, Hoạn Thư đã biện bạch để mình trở thành nạn nhân của chế độ đa thê.
Tiếp đến nàng ta kể công với Kiều:
Nghĩ cho khi gác viết kinh,
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
Hoạn Thư đã khéo léo gợi lại chút ân tình ngày xưa: một là đã cho Kiều xuống Quan Âm Các giữ chùa chép kinh, không bắt làm thị tì nữa; hai là, khi Kiều bỏ trốn mang theo chuông vàng khánh bạc, đã bỏ qua không đuổi theo. Cách nói này rất khéo, chỉ gợi sự thật và chuyện cũ ra, chỉ người trong cuộc mới biết. Nghĩ cho là nhớ lại cho, suy nghĩ lại cho.
Cuối cùng Hoạn Thư nhận tất cả lỗi về mình, chỉ còn biết trông cậy vào tấm lòng khoan dung, độ lượng lớn rộng như trời biển của Kiều:
Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.
Tuy chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai nhưng trong thâm tâm, Hoạn Thư luôn kính yêu Thúy Kiều. Hoạn Thư tự nhận tội gây việc chông gai và xin Thúy Kiều rộng lượng. Qua các lí lẽ gỡ tội, có thể thấy Hoạn Thư là người sâu sắc nước đời đến quỷ quái tinh ma.
Phân tích hình tượng nhân vật Hoạn Thư qua đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 2
Trong đoạn trích “Thúy Kiều báo ân báo oán”, đại thi hào Nguyễn Du không chỉ xây dựng thành nhân vật Thúy Kiều, con người có ơn, thù rạch ròi phân minh mà nhân vật phản diện là Hoạn Thư cũng được miêu tả một cách chân thực, đầy sống động.
Hoạn Thư vốn là tiểu thư con nhà Thượng Thư, vốn là “cành vàng lá ngọc”, được nuông chiều từ bé nên vốn hống hách, coi thường người khác. Nàng ta lại là “chính thê” của Thúc Sinh nên khi Thúc Sinh chuộc Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh và muốn lập làm thiếp thì bản tính tàn độc, hung hãn của Hoạn thư được đẩy lên cao độ.
Chính những hành động ghen tuông mù quáng của Hoạn Thư đã chà đạp, hành hạ Thúy Kiều cả về thể xác lẫn tinh thần, mang đến cho Kiều bao nhiêu đau khổ, nhục nhã, ê chề.
Vốn là người sắc sảo, khôn ngoan nên khi bị Thúy Kiều bắt đến trong “phiên tòa” xử tội thì Hoạn Thư vẫn dễ dàng dùng những lời lẽ của mình để thoát tội. Bộc lộ một con người vô cùng tỉnh táo, khôn ngoan, biết “đánh” vào tâm lí của người khác.Diễn biến tâm lí của Hoạn Thư cũng được Nguyễn Du miêu tả thật sống động, độc đáo:
“Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu
Khấu đầu trước trướng,liệu điều kêu ca”
Khi bị Thúy Kiều cho người bắt đến phiên tòa xử tội, Hoạn Thư biết được tình thế của mình nên “hồn lạc phách xiêu”. Dường như nàng ta cũng biết với những đau khổ mình mang đến cho Thúy Kiều thì hôm nay kết cục của mình cũng sẽ không thể sáng sủa hơn. Hoạn Thư đã ra sức “khấu đầu”, “kêu ca” để mong ngóng sự thương cảm của của Thúy Kiều, đồng thời cũng cố gắng cứu mình.
Như vậy, chỉ với hai câu thơ thôi nhưng ta cũng có thể cảm nhận được sự khôn khéo của Hoạn Thư, không chỉ biết người, biết ta, biết tình thế mình đang gặp phải, nàng ta vứt bỏ cái tôn nghiêm của một “đại phu nhân”, hạ mình lạy lục trước người mình coi thường, chà đạp.
Trước lời định tội đanh thép của Thúy Kiều dành cho mình “ Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư” rồi “ càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều”, Hoạn Thư như biết trước kết cục mà mình sẽ phải trải qua. Trong tình thế ấy,không mấy người tỉnh táo mà xử lí được như Hoạn Thư:
“Rằng: “Tôi chút phận đàn bà”
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình”
Hoạn Thư dù trong lòng sôi như lửa đốt nhưng ngoài mặt vẫn cố tỏ ra bình tĩnh mà dùng lời lẽ để thuyết phục Thúy Kiều.Chỉ cần nhìn vào thái độ bình thản ấy thôi ta cũng thấy được bản lĩnh ghê gớm của người đàn bà ấy.
Hoạn Thư đã nhận mình “Chút phận đàn bà”. Do đó, dù có ghen tuông thì cũng là sự “thường tình”. Biết bao tội lỗi đã làm với Thúy Kiều nhưng chỉ một câu nói, Hoạn Thư như rũ bỏ được mọi tội danh, rằng đó là bản tính chung của đàn bà. Như thế, Hoạn Thư đã đưa mình vào cùng một “thế giới” với Thúy Kiều, trông chờ sự cảm thông, làm cho mức độ tội ác giảm xuống đáng kể.
Khi đã đánh động được vào tâm lí của Thúy Kiều, Hoạn Thư đã tiếp tục dùng sự khôn khéo, lọc lõi của mình để Thúy Kiều không chỉ cảm thông mà còn phải mang ơn với mình:
“Nghĩ cho khi các viết kinh
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo
Lòng riêng riêng những kính yêu”
Hoạn Thư đã kể nể về công ơn khi xưa đã cho Thúy Kiều ra Quan Âm các chép kinh, đưa Thúy Kiều từ chỗ Hoạn Bà về.Nghĩa là cuộc sống nơi quan âm các không khắc nghiệt như khi ở với Hoạn Bà.Nhân đây, Hoạn Thư gợi lại cho Thúy Kiều để trông ngóng sự trắc ẩn của nàng.Hơn nữa, khi Thúy Kiều mang theo đồ đạc nhà Hoạn Thư trốn đi thì Hoạn Thư đã không cho người đuổi theo, hay bắt về bởi sự “kính yêu” thầm kín mà Hoạn Thư dành cho Kiều.
Ở đây, nói Hoạn Thư “khoa ngôn xảo trá” cũng không hoàn toàn, bởi Hoạn Thư tuy hung ác nhưng cũng là người biết “liên tài”. Khi nghe Thúy Kiều gảy đàn,Hoạn Thư cũng nhận biết được tài năng cũng biết được Thúy Kiều là người tốt, trong lòng cũng có chút cảm thông với Kiều. Bởi lẽ đó mà nàng ta đã đưa Thúy Kiều về quan âm các, tránh sự hành hạ dã man của mẹ mình.
Chưa hết, Hoạn Thư vẫn tiếp tục đưa ra những lí lẽ, mà những lí lẽ này tác động mạnh mẽ đến tâm lí của Thúy Kiều:
“Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai
Trót lòng gây việc chông gai
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”
Vì là “chồng chung” nên Hoạn Thư có ghen tuông, có mù quáng thì cũng là việc có thể hiểu được. Những hành động đã gây ra cho Thúy Kiều cũng chỉ là “ trót”, nghĩa là muốn nhấn mạnh rằng mình không cố ý, cũng hoàn toàn không muốn làm như vậy với Thúy Kiều, hoàn toàn là do sự vô tình.Hoạn Thư không chối đẩy trách nhiệm, cũng không chối tội mà nhận mọi tội lỗi về mình và mong nhận được sự tha thứ của Kiều “Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”.
Chính sự khôn khéo, hoạt ngôn cùng những lí lẽ sắc sảo của mình mà Hoạn Thư gần như xóa bỏ hết tội danh của mình, đưa mình từ một người phạm tội thành vô tội,hơn nữa còn khiến Kiều có cảm giác mang ơn với mình. Sự lọc lõi, khôn lẽ đời này của Hoạn Thư cũng được chính Thúy Kiều công nhận:
“Khen cho thật đã nên rằng,
Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời”
Và cũng chính vì vậy mà Hoạn Thư thoát được “án tử” một cách ngoạn mục:
“Tha ra thì cũng may đời
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen
Đã lòng tri quá thì nên
Truyền quân lệnh xuống trường tiền tha ngay”
Khi bị Thúy Kiều cho người bắt đến xử tội và ngay cả khi bị Kiều kết tội một cách dứt khoát, tuyệt tình “Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư”. Cái kết của người đàn bà này gần như đã bị định trước là không còn đường thoát, nhưng sự khéo léo, ranh ma của Hoạn Thư đã giúp đẩy ngược tình thế.Qua đây ta cũng thấy được sự sắc sảo, bản lĩnh phi thường của Hoạn Thư.
Từ khóa tìm kiếm
- đánh giá hoạn thư trong kiều báo ân báo oán