Phân tích giá trị lịch sử và giá trị văn chương của bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh – Văn mẫu lớp 12
Phân tích giá trị lịch sử và giá trị văn chương của bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh – Văn mẫu lớp 12 4.8 (96%) 380 votes Phân tích giá trị lịch sử và giá trị văn chương của bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh – Bài làm 1 của học sinh giỏi Văn trường THPT Nguyễn Huệ Tp Hồ Chí ...
Phân tích giá trị lịch sử và giá trị văn chương của bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh – Văn mẫu lớp 12 4.8 (96%) 380 votes Phân tích giá trị lịch sử và giá trị văn chương của bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh – Bài làm 1 của học sinh giỏi Văn trường THPT Nguyễn Huệ Tp Hồ Chí Minh 1.Giới thiệu hoàn cảnh ra đời của bản Tuyên ngôn Độc lập, nêu ...
Phân tích giá trị lịch sử và giá trị văn chương của bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh – Bài làm 1 của học sinh giỏi Văn trường THPT Nguyễn Huệ Tp Hồ Chí Minh
1.Giới thiệu hoàn cảnh ra đời của bản Tuyên ngôn Độc lập, nêu hai giá trị cơ bản của bản Tuyên ngôn, đó là giá trị lịch sử và giá trị văn chương
Ngày 19/8/1945, chính quyền ở Hà Nội đã về tay nhân dân. Ngày 26/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu cách mạng Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Hồ Chí Minh đã soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình – Hà Nội, Người thay mặt chính phủ lâm thời Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn độc lập trước hàng chục vạn đồng bào. Bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh vừa có ý nghĩa Lịch sử vô cùng to lớn, vừa có giá trị văn chương cao.
2. Giá trị lịch sử
Về mặt lịch sử, bản Tuyên ngôn Độc lập đã mở ra một kỉ nguyên mới trong lịch sử dân tộc: kỉ nguyên của độc lập, tự do, đánh đổ chế độ phong kiến hàng mấy mươi thế kỉ, đánh đổ ách đô hộ của thực dân Pháp hơn tám mươi năm, khai sinh ra Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Bản Tuyên ngôn đã thể hiện một cách hùng hồn khát vọng, ý chí và sức mạnh Việt Nam.
Bán Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh còn là sự khẳng định tuyên bố với thế giới rằng nước Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, không ai có quyền xâm phạm được.
So với bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất (Nam quốc sơn hà – Lí Thường Kiệt) và bản Tuyên ngôn Độc lập lần thứ hai (Bình Ngô đại cao – Nguyễn Trãi) thì bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh đã vươn lên một tầm cao mới, vượt hơn ở tầm vóc hướng ra thế giới trên tinh thần dân chủ, tự do có kết hợp với truyền thống yêu nước và tư tưởng nhân đạo của dân tộc.
3. Giá trị văn chương
Về mặt văn chương, bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh rất ngắn gọn, chưa tới một ngàn chữ nhưng vô cùng chặt chẽ và cô đọng.
Bản Tuyên ngôn chia làm ba phần rõ rệt, mỗi phần một ý, liên hệ chặt chẽ với nhau. Trong phần một, Hồ Chí Minh đã nêu lên những chân lí về nhân quyền và dân quyền để làm cơ sở pháp lí cho bản Tuyên ngôn. Trong phần này Bác đã nêu lên hai bản Tuyên ngôn, đó là bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mĩ năm 1776 và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 để khẳng định quyền thiêng liêng của mỗi con người: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc" (Tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ, 1776), “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” (Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp, 1791)
Việc dẫn hai bản tuyên ngôn này, Bác đã đặt bản Tuyên ngôn Độc lập của ta ngang hàng với các bản Tuyên ngôn của các nước lớn như Pháp và Mĩ. Từ đó khẳng định quyền thiêng liêng của mỗi con người, Bác đã nâng lên thành
quyền thiêng liêng của mỗi dân tộc: “suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Phần thứ nhất đã làm nền cho phần thứ hai của bản Tuyên ngôn. Nếu trong phần thứ nhất Bác khẳng định quyền thiêng liêng của mỗi con người, của mỗi dân tộc là quyền được sống, được tự do, được độc lập và mưu cầu hạnh phúc thì trong phần thứ hai của bản Tuyên ngôn, Bác đã vạch rõ tội ác của thực dân Pháp đã gây ra cho đất nước ta, nhân dân ta. Hành động của chúng thật dã man, vô nhân đạo, đi ngược lại tinh thần của bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp, vạch rõ bản chất gian xảo của bọn thực dân Pháp. Trong phần này Bác lại nêu rõ tinh thần nhân đạo, yêu độc lập lự do và tinh thần quyết tâm giành và bảo vệ độc lập của dân tộc ta. Đến phần thứ ba (phần cuối) Bác lại nói về kết quả của tinh thần yêu nước, yêu độc lập tự do của dân tộc ta và tuyên bố trịnh trọng với thế giới rằng “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập và thực sự đã trở thành một nước tự do độc lập”.
Như vậy, ta thấy bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh có một kết câu, bố cục khá chặt chẽ. Hơn nữa, lời lẽ của bản Tuyên ngôn khá hùng hồn, nhịp điệu câu văn khá dồn dập, sắc cạnh. Có những câu văn thật ngắn gọn nhưng lại diễn đạt một ý nghĩa vô cùng phong phú như câu “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Câu văn chỉ có chín từ thôi nhưng lại diễn đạt được bao biến động của thời điểm lịch sử lúc bấy giờ.
Trong bản Tuyên ngôn độc lập này Bác đã sử dụng rất thành công các biện pháp tu từ: điệp từ, điệp ngữ…. như Bác sử dụng khá độc đáo điệp từ “sự thật”. Điệp từ này được Bác nhắc đi nhắc lại nhiều lần để cho mọi người thấy rõ chân lí phải đi từ sự thật. Sự thật là điều chứng minh rõ cho chân lí. Và từ đó Bác đã vạch trần cái luận điệu “bảo hộ Đông Dương", “khai hóa văn minh" của thực dân Pháp; đồng thời cũng để khẳng định lòng yêu độc lập tự do, tinh thần quyết tâm đấu tranh để giành và giữ vững nền độc lập tự do của dân tộc. Cách dùng điệp từ này còn làm cho bản Tuyên ngôn mang tính thuyết phục cao. Bên cạnh đó, Bác còn sử dụng rất thành công phép liệt kê để vạch rõ tội ác của kẻ thù đã gieo rắc cho nhân dân ta, đất nước ta trên nhiều lĩnh vực từ chính trị đến văn hóa, kinh tế…
Trong bản Tuyên ngôn Độc lập, Bác còn dùng phép tăng cấp: “…tuyên bố thoát li hẳn quan hệ với thực dân Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xóa bỏ tất củ mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam". Với phép tăng cấp này, Bác đã thể hiện cao độ tinh thần độc lập tự chủ của cả dân tộc.
Qua những điều trình bày trên, ta thấy rõ Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh có một giá trị văn chương lớn.
4. Khái quát lại giá trị lịch sử và giá trị văn chương của bản Tuyên ngôn độc lập
Tóm lại, bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh vừa có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn vừa có giá trị văn chương cao. Bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh là kết quả của bao nhiêu máu đã đổ, bao nhiêu tính mệnh đã hi sinh của những người con anh dũng của Việt Năm trong nhà tù, trong trại tập trung, trong những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường. Bản “Tuyên ngôn độc lập” là kết quả của bao nhiêu hi vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam (Trần Dân Tiên – Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chí Minh).
Phân tích giá trị lịch sử và giá trị văn chương của bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh – Bài làm 2
Một áng văn nổi tiếng của Nguyễn Ái Quốc – Bác Hồ – vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam chính là bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tác phẩm này vừa có giá trị lịch sử, vừa có giá trị văn chương sâu sắc.
Bản tuyên ngôn có giá trị lịch sử to lớn bởi trước hết nó là một văn kiện lịch sử quan trọng. Nó là lời tuyên bố xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, là sự khẳng định quyền tự chủ và vị thế bình đẳng của dân tộc ta trên toàn thế giới, là mốc son lịch sử mở ra kỉ nguyên độc lập, tự do trên đất nước ta. Văn kiện lịch sử này không chỉ được đọc trước quốc dân, đồng bào, mà còn để công bố với thế giới, đặc biệt là những lực lượng thù địch và cơ hội quốc tế đang mang dã tâm muốn nô dịch nước ta thêm lần nữa. Thời kỳ mà chúng ta xóa bỏ được những xiềng xích của bọn thực dân phát xít phong kiến, đưa nước ta sang một trang sử mới, một thời kỳ mới. Thời kỳ chính quyền thuộc về tay nhân dân. Đó chẳng phải là một sự kiện trọng đại mang tính lịch sử hay sao? Chính vì là một văn kiện có tầm quan trọng trong một hoàn cảnh đặc biệt như thế mà bản Tuyên ngôn độc lập đã trở thành áng văn bất hủ và mang tính lịch sử đến thế.
Vậy còn tính văn chương? Bản Tuyên ngôn độc lập được đánh giá là một áng văn chính luận đặc sắc,ngắn gọn, súc tích, đầy sức thuyết phục. Với việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn của hai cường quốc Mĩ và Pháp đã giáng đòn cao tay, gậy ông đập lưng ông về phía chúng. Tất cả những từ ngữ, cách chuyển đoạn cùng với nghệ thuật đặc sắc của bản Tuyên ngôn đều cho thấy điều đó. Việc lặp cấu trúc cú pháp, sử dụng phương pháp liệt kê cùng lời lẽ đanh thép đã tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân. Lời lẽ của Người còn có khả năng tác động mạnh mẽ đến người đọc người nghe. Người có thế khiến người đọc người nghe dấy lên lòng căm thù chỉ bằng lời văn của mình. Chính phong cách viết văn chính luận của Bác đã để lại nhiều bài học cho thế hệ cầm bút sau này. Bởi vậy mà tác phẩm càng có giá trị văn chương hơn.
Bản Tuyên ngôn độc lập còn là áng văn tâm huyết tràn đầy lòng yêu nước cỉa Người. Người viết bản Tuyên ngôn mà không chỉ viết bằng lí trí mà còn bằng cả trái tim mình. Bác đã để lại nhiều bài học văn chương cho nhiều thế hệ cầm bút Việt Nam. Khi cầm bút phải xuất phát từ mục đích, đối tượng tiếp nhận để quyết định nội dung hình thức để tác phẩm sâu sắc về tư tưởng, thiết thực về nội dung và phong phú đa dạng về hình thức.
Tóm lại, với "Tuyên ngôn độc lập" của Hồ Chí Minh, tác phẩm là một áng văn bất hủ, là một văn kiện lích sử trọng đại, một áng văn chính luận mẫu mực, thể hiện một tư tưởng lớn, tình cảm lớn, quyết tâm lớn.
Phân tích giá trị lịch sử và giá trị văn chương của bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh – Bài làm 3
19/8/1945 chính quyền ở Thủ đô Hà Nội đã về tay nhân dân ta. Ngày 23/8 tại Huế, trước mười lăm vạn đồng bào ta, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị. Ngày 25/7 hơn tám mươi vạn đồng bào Sài Gòn, Chợ Lớn quật khởi đứng lên giành chính quyền. Chỉ không đầy mười ngày, Tổng khởi nghĩa và Cách mạng tháng Tám đã thành công rực rỡ. Chế độ thực dân kéo dài tám mươi năm cùng với chế độ phong kiến hàng ngàn năm sụp đổ tan tành.
Ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, thay mặt chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa, mở ra một kỉ nguyên mới độc lập, tự do. Hà Nội lưng bừng màu đỏ, cả một vùng trời bát ngát cờ, đèn và hoa.
Đọc bản Tuyên ngôn độc lập đến nửa chừng, Hồ Chủ tịch dừng lại và bỗng dưng hỏi: “Tôi nói, đồng bào nghe rõ không”. Tức thì một tiêng “Có” của một triệu con người cùng đáp, vang dậy như sấm.
“Việt Nam độc lập muôn năm” – Một triệu con người, một triệu tiếng hô cùng hòa làm một, vang dội núi sông, khi Hồ Chủ tịch vừa kết thúc bản Tuyên ngôn: “Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Có thể nói: bản Tuvên ngôn độc lập thể hiện một cách hùng hồn, khát vọng ý chí và sức mạnh Việt Nam… Nó có một giá trị lịch sử vô cùng to lớn. Nó phản ánh một cách tập trung nhất, tiêu biểu nhất phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh.
Nếu như Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt mở đầu bằng một lời tuyên ngộn đanh thép: “Nam quốc sơn hà nam đế cư”, Bình ngô đại cáo khẳng định một chân lý lịch sử: “ Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, thì Tuyên ngôn độc lập lại mở đầu bằng cách trích dẫn hai câu nói trong hai bản tuyên ngôn nổi tiếng trên thế giới.
Câu thứ nhất trích dẫn từ bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776:
“Tất cả mọi người sinh ra đều củ quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được: trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc”.Câu thứ hai rút ra từ bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Hồ Chí Minh không chỉ trích dẫn mà còn bình luận, suy rộng ra: “Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyển tự do”, và đi tới khẳng định: “Đó là những lẽ không ai chối cãi được”. Qua đó, ta thây ý tưởng cao cả, sâu sắc của Hồ Chí Minh là từ sự xác nhận và đề cao một lý tưởng thời đại về tự do, bình đẳng, bác ái, về nhân quyền đi đến một yêu cầu, khát vọng cháy bỏng và vô cùng thiêng liêng của nhân dân Việt Nam là độc lập dân tộc. Và “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” là mục tiêu chiến đấu của nhân dân ta, của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, việc trích dẫn còn là để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ rộng lớn của dư luận tiến bộ trên thế giới nhất là đối với các cường quốc năm châu. Như vậy, khi ta nói đến giá trị lịch sử của Tuyên ngôn độc lập trước hết phải nói đến dụng ý chiến lược và chiến thuật của việc trích dẫn hai câu nổi tiếng trong hai bản tuyên ngôn của Mỹ và Pháp.
Giọng văn từ trang nghiêm, trang trọng chuyển thành hùng hồn, căm giận khi Hồ Chủ tịch vạch trần và lên án tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân ta trong gần một thế kỷ qua. Bộ mặt của chúng vô cùng xảo quyệt và dã man “ lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta”. Tác giả đã điểm qua một cách khái quát và điển hình tội ác của thực dân Pháp trên các lĩnh vực về chính trị, kinh tế và những tội ác khác chồng chất như núi. Đó là năm tội ác ghê tởm về chính trị và bốn tội ác cực kỳ dã man về kinh tế của chúng.
Năm tội ác lớn về chính trị là tước đoạt quyền tự do dân chủ, luật pháp dã man, chia để trị; đàn áp và khủng bố; thi hành chính sách ngu dân; đầu độc bằng rượu cồn và thuốc phiện “để kìm cho nòi giống ta suy nhược”. Trong Bình ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã nói về tội ác của quân “cuồng Minh”: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn – Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”. Hơn năm trăm năm sau, trong Tuyên ngôn độc lập, người hùng giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh viết:“Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thằng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”
Đó là những bằng chứng không ai chối cãi được. Câu văn ngắn, đanh thép, hùng hồn. Chữ “chúng” được nhắc lại nhiều lần đầy ám ảnh. Cách so sánh cụ thể, mỉa mai “lập ra nhà tù nhiều hơn trường học”. Cách dùng vị ngữ, trạng ngữ xác đáng “thẳng tay chém giếí”, cách dùng hình ảnh “bể máu” – tất cả tạo nên phong cách chính luận Hồ Chí Minh: súc tích, lập luận chặt chẽ, đanh thép, lời lẽ hùng hồn đầy sức thuyết phục.
Bốn tội ác về kinh tế của thực dân Pháp là bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho “dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều”; cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu, độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.v..v…. lên án chính sách sưu thuế vô nhân đạo của chúng, tác giả căm giận viết: “Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng”. Hàng trăm thứ thuế vô lý của thực dân Pháp đặt ra, nhân dân ta đã từng chịu đựng và ghê tởm:
“…Các hạng thuế, các làng tăng mãi
Hết đinh điền rồi lại trâu bò
Thuế diêm, thuế rượu, thuế bò, thuế xe
Thuế sản vật, thuế chè, thuế thuốc
Thuế môn bài, thuế nước, thuế đèn
Thuế nhà cửa, thuế chùa chiền
Thuế bè tre gỗ, thuế thuyền bán buôn
Thuế đến cả phấn son đường phố
Thuế những anh thuốc lọ gậy mòn
Thuế gò, thuế bãi thuế cồn
Thuế người chức sắc, thuế con hát đàn
Thuế dầu, mật, thuế sơn mọi lối
Thuế gạo rau, thuế muối, thuế bông
Thuế tơ, thuế sắt, thuế đồng
Thuế chim, thuế cá, khắp trong lưỡng kỳ
Các dạng thuế kể chi cho xiết
Thuế xí kia mới thiệt lạ lùng!
Làm cho thập thất cửu không
Làm cho đau đớn khốn cùng không thôi,.!…
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ mặt hèn nhát và phản bội của thực dân Pháp. Mùa thu năm 1940, thực dân Pháp “quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta, rước Nhật”. Pháp và Nhật đã câu kết với nhau, bóc lột dân ta thậm tệ, gây ra thảm họa năm Ất Dậu, 1945: Từ đó, dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó, dân ta sống cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta đã bị chết đói.
Sự hèn hạ, tàn ác của thực dân Pháp không thể nào kể xiết! Ngày 9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp, “quân Pháp bỏ chạy hoặc đầu hàng”. Tác giả châm biếm lên án: “Chúng chẳng những không bảo hộ được ta, trái lại trong năm năm chúng bán nước ta hai lần cho Nhật!”. Thậm tệ và tàn nhẫn hơn nữa trước khi rút chạy “chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao bằng”.
Bằng cách lập luận chặt chẽ. đanh thép, hùng hồn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một sự thật lịch sử: Từ năm 1940 trở đi, nước ta đã trở thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Việt Minh đã lãnh đạo nhân dân nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Để đập tan luận điệu của Đờ Gôn và bọn thực dân phản động Pháp đang âm mưu “tái chiếm” Đông Dương, Hồ Chí Minh hùng hồn tuyên bố: “sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”.
Tuyên ngôn độc lập có giá trị lịch sử to lớn. Tác giả chỉ rõ một cục diện chính trị mới: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Từ nô lệ, nhân dân ta đã giành được độc lập: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập”. Một chế độ mới, một nhà nước mới ra đời: “Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thể kỷ lập nên chế độ Dân chù Cộng hòa”.
Phần tiếp theo là lời tuyên bố sáng ngời chính nghĩa, thể hiện một quyết tâm sắt thép, không một thế lực thù địch nào có thể lay chuyển nổi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng trên lập trường dân tộc kêu gọi các nước Đồng minh “công nhận quyền độc lập của nhân dân Việt Nam”. Đồng thời mạnh mẽ tuyên bố: “thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cá mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”. Tác giả tự hào nêu cao truyền thống anh hùng bất khuất chống thực dân, chống phát xít của dân tộc ta và khẳng định: “Dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”.
Kết thúc bản Tuyên ngôn độc lập là một lời tuyên bố mang ý nghĩa lịch sử như một lời thề thiêng liêng, thể hiện sâu sắc khát vọng độc lập, tự do của nhân dân ta, biểu thị quyết tâm và sức mạnh Việt Nam.
Phân tích giá trị lịch sử và giá trị văn chương của bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh – Gợi ý
– Về giá trị lịch sử, Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện quan trọng có tính chất đúc kết nguyện vọng sâu xa của dân tộc Việt Nam về quyền độc lập tự do. Tuyên ngôn độc lập cũng là kết quả của cả một quá trình đấu tranh hơn 100 năm của dân tộc ta chống các loại kẻ thù trong và ngoài nước để có được quyền thiêng liêng ấy. Đằng sau những lời văn trang trọng của Tuyên ngôn độc lập là sự thật lịch sử, là hình ảnh của một đất nước, một dân tộc trong những năm đen tối đau thương dưới ách thống trị của kẻ thù, dù biết bao cuộc đấu tranh khởi nghĩa đầy gian khổ, thất bại, hi sinh để cuối cùng có Cách mạng tháng Tám năm 1945. Có lẽ vì những ý nghĩa đó mà trong cuốn “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” , Trần Dân Tiên có viết: “Bản tuyên ngôn độc lập là kết quả của bao nhiêu máu đã đổ, bao nhiêu tính mạng của những người con anh hùng của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trong những vùng biên giới hải đảo xa xôi, trên máy chém., trên chiến trường. Bản Tuyên ngôn độc lập là kết quả của bao nhiêu tin tưởng, gắng sức và hy vọng của hơn 20 triệu dân Việt Nam”.
Mặt khác, bản Tuyên ngôn độc lập còn thể hiện tư tưởng mang tầm vóc lịch sử. Độc lập của dân tộc bao giờ cũng gắn liền với quyền sống của con người và hạnh phúc của đất nước cũng chính là hạnh phúc của mỗi cá nhân trong cộng đồng. Như vậy, quyền của dân tộc, quyền của con người, quyền của cá nhân là những phạm vi gắn bó chặc chẽ với nhau ; Bản Tuyên ngôn độc lập đã tạo ra sự thống nhất của ba phạm vi đó: từ quyền sống của con người, tác giả nâng cao thành quyền lợi của dân tộc và trong quyền lợi của dân tộc đã hàm chứa quyền sống của mỗi cá nhân.
– Về giá trị văn chương: Tuyên ngôn độc lập là một án văn chính luận mẫu mực (xét ở các mặt: dung lượng, kết cấu, ngôn ngữ): Dung lượng của Tuyên ngôn độc lập rất ngắn gọn, cô đọng, giàu sức thuyết phục, gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc. Kết cấu tác phẩm rất chặc chẽ vói các phần đều liên quan với nhau: cách lập luận đanh thép, có chứng cứ xác thực ; và tất cả đều xoáy vào một điều quan trọng nhất là độc lập chủ quyền của dân tộc Việt Nam. Ngôn ngữ tác phẩm chính xác, giàu sức biểu hiện. từng câu, từng chữ đều được lựa chọn sao cho đạt hiệu quả diễn đạt cao nhất. Trong bài “Kinh nghiệm Bác viết như thế nào?”, chính Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng tự thừa nhận, sau lần đăng bài báo đầu tiên, rồi truyện ngắn đầu tiên, đây là lần thành công thứ ba khiến Người “cảm thấy thực sự sung sướng” trong đời làm báo, viết văn để hoạt động cách mạng cứu nước đầy sóng gió của mình.