21/02/2018, 09:48

Phân tích đoạn trích Trao duyên trong tác phẩm Truyện Kiều

– Bài 1 “Trao duyên”- một hành động “trả nghĩa chàng Kim” của Thuý Kiều thể hiện một nét đẹp trong đạo sống của người xưa, “tình” thường gắn liền với “nghĩa”. Đó là một đặc điểm quan trọng trong quan niệm truyền thống về tình yêu. Đó là cái ...

– Bài 1

“Trao duyên”- một hành động “trả nghĩa chàng Kim” của Thuý Kiều thể hiện một nét đẹp trong đạo sống của người xưa, “tình” thường gắn liền với “nghĩa”. Đó là một đặc điểm quan trọng trong quan niệm truyền thống về tình yêu. Đó là cái nhìn hiện thực của Nguyễn Du về con người. Nhưng bên cạnh đó, ta còn thấy một nàng Kiều thiết tha với tình yêu, thiết tha với cuộc sống riêng tư. Điều đó được thể hiện qua nỗi đau đớn của nàng vì tình yêu tan vỡ. Chiều sâu và sự chân thành trong tình cảm của nàng Kiều được bộc lộ sâu sắc khi nàng đối diện với kỉ vật, kỉ niệm tình yêu.

Mối tình Kim- Kiều là mối tình đẹp vượt lễ giáo phong kiến. Mối tình của đôi tài tử- giai nhân ấy đã có những kỉ niệm trong sáng, đẹp đẽ, sâu nặng thiết tha. Kỉ niệm chính là hiện thân của tình yêu. Kỉ vật gắn với kỉ niệm, là một dạng vật chất hoá của kỉ niệm. Cho nên, rải rác suốt trong đoạn Trao duyên, Thuý Kiều đã nhắc tới, đã sống và đau đớn với những kỉ vật và kỉ niệm ấy.

Trước hết, kỉ niệm được Kiều nhắc đến một cách tế nhị khi nói với Thuý vân về mối tình của mình:Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề

Ngôn ngữ khách quan, chữ “khi” lặp lại như dư âm của cái đã qua, lời lẽ có vẻ thanh thản. Nhưng cái thiết tha, cái chiều sâu của tình cảm lại nằm ở kỉ niệm “gặp chàng Kim”. Đó là kỉ niệm của phút giây gặp gỡ ban đầu mà “nghìn năm hồ dễ mấy ai quên”. Cả một vùng trong sáng của kí ức hiện về. Nhưng lúc này Kiều còn đủ lí trí để kìm nén, để không bị kỉ niệm cuốn vào tâm tưởng. Nhưng đến câu: “Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề” thì kỉ niệm của ngày trao quạt cho nhau để hẹn ước, đêm dưới trăng uống rượu nguyện thề thuỷ chung tự nó nói lên sự sâu nặng của một mối tình: trong sáng mà mãnh liệt, thiết tha.

Mối tình vàng đá ấy tưởng cầm nắm trong tay bỗng chốc bị xã hội dập vùi tan vỡ. Tình yêu vẫn tiếp tục hiện về với kỉ vật:

Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ, vật này của chung.

Khi trao kỉ vật cho Thuý Vân, nỗi mất mát hiện hữu quá rõ. cầm đến kỉ vật, kỉ niệm tình yêu sống dậy đối lập với hiện thực phũ phàng, Thuý Kiều không còn đủ lí trí để kìm nén được nữa, giọng nói của nàng run lên: “Duyên này thì giữ, vật này của chung”, nghe như có tiếng nấc nghẹn ngào trong đó. Hoài Thanh đã cảm thông nỗi đau đớn của nàng Kiều ở hai từ “của chung” – “Bao nhiêu đau đớn dồn vào hai tiếng đơn sơ ấy”. đau đớn vì duyên thì trao cho em mà tình yêu thì không trao được. Kỉ vật với Thuý Vân chỉ đơn giản là vật làm tin nhưng với Thuý Kiều nó lại là tình yêu.

Trao duyên cho em, con người đạo lí ở Thuý Kiều mách bảo cần phải trao kỉ vật. vả lại, khi tình yêu tan vỡ, giữ kỉ vật chỉ thêm đau. Nhưng Thuý Kiều không chỉ là con người của đạo lí mà còn là con người của tình riêng. Thuý Vân giữ kỉ vật trong khi chính Kiều mới là người giữ kỉ niệm của tình yêu. Cuộc chia lìa giữa kỉ niệm và kỉ vật là cuộc chia lìa giữa linh hồn và thể xác. Đau đớn dồn vào hai chữ “của chung” là vì như thế. Nguyễn Du như hoá thân để cảm thông, chia xẻ đến tận cùng nỗi đau với nhân vật của mình, từ đó cất lên tiếng nói nhân đạo sâu sắc, mới mẻ.

Càng lúc, nỗi đau đớn càng lớn, kỉ vật, kỉ niệm tình yêu cứ chập chờn:

Mất người còn chút của tin

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa

“Ngày xưa”, “phím đàn”, “mảnh hương nguyền”,… có một đôi lứa thiếu niên bên nhau, nàng đánh đàn cho chàng nghe trong khói hương trầm thơm ngát. Bao nhiêu thi vị của mối tình đầu giờ chỉ còn là vô vọng.

– Đốt lò hương ấy, so tơ phím này…
– Hồn còn mang nặng lời thề …

“Lò hương”, “phím đàn”, “lời thề” là những kỉ niệm sâu nặng, thiết tha đối lập với hiện thực phũ phàng, tương lai mù mịt khiến Thuý Kiều rơi vào trạng thái đau đớn tột độ.

Nguyễn Du thật tinh tế, sâu sắc khi biểu đạt nội tâm con người đối diện với kỉ vật, kỉ niệm tình yêu trong hoàn cảnh trao duyên. Thân phận đau khổ nhưng nhân cách sáng ngời. Nàng ứng xử theo văn hoá của thời trung đại nhưng không thôi nghĩ về thân phận và tình yêu riêng tư. điều đó khiến nàng Kiều “người” hơn, gần chúng ta hơn, sống động và chân thực hơn. 

– Bài 2

Truyện Kiều là một tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Du nói riêng, của cả nền văn học Việt Nam nói chung. Như tên gọi, ‘Đoạn Trường Tân Thanh’ là tiếng khóc, tiếng kêu xé lòng của một – những số phận tài hoa mà bạc mệnh dưới chế độ phong kiến hà khắc, bất công. Qua hình ảnh Kiều, Nguyễn Du khắc họa nên sự tài hoa, tinh tế, thông minh, nhưng cũng khắc họa nên một cuộc đời nhiều đau thương, éo le, trớ trêu. Nguyễn Du vừa tạo nên một Kiều sắc sảo, mạnh mẽ, lại vừa vẽ nên một Kiều yếu đuối trước những đau thương, sóng gió. Điều đó thể hiện rõ nét nhất qua đoạn trích Trao Duyên, khi mà Kiều phải trao đi niềm hạnh phúc riêng tư.

Mở đầu cuộc nói chuyện, Kiều không nói ngay vào lý do – điều sẽ khiến người khác phật lòng, khiến người khác nghĩ nàng rất kịch, mà lại tạo không khí.

“Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Kiều tạo nên một không khí chân thành, trang trọng khi dùng những lời lẽ thiết tha và đầy chân thật. Nàng dùng từ ‘cậy’ chứ không phải ‘nhờ’, nàng dùng từ ‘chịu’ chứ chẳng phải ‘nhận’. Nàng là phận làm chị, nhưng lại bảo Vân ‘ngồi lên cho chị lạy’. Giờ đây, nàng không còn là người chị của Vân nữa, nàng chỉ đơn thuần là một người đang nhờ cậy người khác, và Vân sẽ là người giúp nàng. Kiều xem Vân như một ân nhân – người có công cao, nghĩa nặng, một bậc bề trên – giống như cha mẹ nàng vậy. Kiều biết Vân sẽ khó xử, nhưng người xưa chẳng nói ‘Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau’ đấy sao, và Kiều khiến Vân chẳng thể từ chối được.

Và cái ngôi lại bất chợt chuyển dời. Kiều sau đó đối với Vân vừa như một người chị đang tâm sự với em về hoàn cảnh éo le của mình. Vì ‘sự đâu sóng gió bất kì’ mà nàng đành ‘giữa đường đứt gánh tương tư’. Giờ nàng chỉ có thể gửi gắm niềm tin nơi Vân ‘tơ thừa mặc em’. Nếu như người Trung Quốc có câu ‘Đời này liệu có cách lưỡng toàn, bất phụ Như Lai, bất phụ người?(1)’ thì Kiều có ‘Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai’. Kiều đã từng đem cân chữ hiếu và chữ tình ‘Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn’, và nàng chọn chữ hiếu. Nhưng khi đứng ở bờ vực chênh vênh – khi mà lý trí bảo nàng trao duyên này đi và tình cảm lại hối thúc nàng dừng lại, nàng lại mâu thuẫn. Nàng đã suy nghĩ trước khi đến gặp Vân, nàng quyết tự tay mình chặt đứt dây tơ hồng này, nhưng quá khứ tươi đẹp ‘Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề’ ‘kể từ khi gặp chàng Kim’ khiến nàng chùn bước. Nhưng lý trí lại mạnh mẽ đánh tỉnh nàng, lôi nàng ra khỏi giấc mộng – giấc mộng về những ngày đẹp đẽ gia đình êm ấm, khiến nàng nhận ra:

“Một kiếp phù sinh một kịch trường

Đồng sàng dị mộng kịch thê lương

Say sưa mộng cảnh người ai tỉnh

Tỉnh giấc nồng say mộng kịch tàn.”(2)

Kiều chẳng biết nhờ ai ngoài Vân – vì Vân là người em của nàng, vì Vân là người cũng chịu cảnh gia đình tan nát như nàng – và có lẽ nàng nghĩ Vân sẽ là người duy nhất hiểu nàng, không khuyên can nàng. Mà có lẽ Vân cũng chẳng thể khuyên Kiều – khi những lời Kiều nói vừa hợp lẽ, lại hợp tình, và sự đã đến nước này rồi, chẳng gì có thể suy chuyển:

“Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non

Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Kiều cũng chỉ bằng tuổi Vân, cũng đang độ như hoa chớm nở, như trăng non mới mọc, vậy mà Kiều lại bảo Vân ‘ngày xuân em hãy còn dài’ – như thể là nàng lớn tuổi hơn Vân. Có lẽ vậy thật – một loạt các biến cố xảy ra đã khiến Kiều già đi – về mặt tâm hồn chứ không phải thể xác – khiến Kiều phải lựa chọn. Và những ngày tháng lênh đênh, lận đận, khuất nhục trước mắt khiến Kiều nghĩ đến cái chết. Cái chết đối với Kiều tựa như nhẹ tựa lông hồng – chỉ cần Vân chịu đồng ý làm cho Kiều cái ân này thì nàng ‘ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây’. Lời Kiều tựa như lời trăn trối của một người sắp chết. Ô hay, Kiều đi chuyến này chắc gì đã chết! Nhưng Kiều đã chết rồi – nàng chết vì khoảng trống trong tâm hồn không có cách nào lấp đầy – khi mà nàng trao đi cái duyên mình cố công vun đắp, ấy như cắt đi trái tim nàng vậy.

“Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ vật này của chung.”

Càng đến gần lúc phải trao duyên thật sự – khoảnh khắc Kiều trao đi kỉ vật minh chứng tình yêu giữa nàng với Kim Trọng – tình cảm càng lấn át lý trí nàng. Kiều trở nên có vẻ ích kỉ hơn, và câu nói của nàng gần như xúc phạm Vân ‘duyên này thì giữ vật này của chung’. Nhưng không, duyên có sờ, có chạm vào được đâu. Kiều trao đi cũng chỉ trao được kỉ vật thôi. Kim Trọng và Vân vốn chẳng có tình cảm, làm sao có duyên được. Nàng như đang van vỉ Vân – hãy để nàng giữ lại cái duyên này – giữ nó lại trong tâm can này, tựa như một niềm an ủi nhỏ nhoi trong những tháng ngày dài dằng dặc, mịt mù vô tận, không có điểm dừng phía trước. Mâu thuẫn giữa tình cảm và lý trí đã đẩy tâm trạng Kiều lên đến đỉnh điểm. Kiều muốn Kim Trọng được hạnh phúc, không cần phải nhìn vật nhớ người mà tự hỏi và băn khoăn ‘Nhân diện bất tri hà xử khứ?/Đào hoa y cựu tiếu đông phong(3)’ nên mới muốn gả Vân cho Kim Trọng. Nhưng tình giữa nàng và Kim Trọng quá nặng – đến mức mà nàng không muốn trao đi, hoặc nàng cảm thấy như trao đi bao nhiêu cũng không đủ.

“Dù em nên vợ nên chồng

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên

Mất người còn chút của tin

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa

Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so dây phím này

Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai

Dạ đài cách mặt khuất lời

Rưới xin giọt nước cho người thác oan”

Lời của Kiều như từ cõi chết vọng về – vì tâm nàng đã chết – nàng cũng như chết rồi. Nàng là người mệnh bạc – tài hoa thì có để làm gì. Nàng vẫn mong Vân và chàng Kim ‘Cầm sắt vô đoạn ngũ thập huyền/ Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên(4)’. Hồn của nàng còn ‘mang nặng lời thề’ nên dù có chết đi cũng chẳng thể siêu thoát. Nàng sẽ dùng chính linh hồn mình về tìm gặp lại người yêu cũ, theo dõi chàng, tìm cách đền đáp chàng. Nhưng chàng liệu có hiểu được chăng? Vì ấy như là âm dương cách trở. Nàng chỉ muốn người còn sống có thể thấu hiểu và đồng cảm với nàng mà thôi.

Và rồi, tình cảm như đê vỡ phá ra tràn bờ, đánh tan chút lý trí mỏng manh của nàng. Nàng như đang tự nói với chính mình, nàng quên đi sự tồn tại của Vân. Nàng tự đặt mình vào trong vòng xoáy lộn xộn những kỉ niệm và những đau khổ của hiện tại.

“Bây giờ trâm gãy gương tan

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân

Trăm nghìn gửi lạy tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi

Phận sao phận bạc như vôi

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”

‘Trâm’ đã gãy, ‘gương’ đã tan, còn có cách này để nối lại. Mà lỡ có nối lại, cũng sẽ mãi còn vết nối ấy thôi, chẳng bao giờ lành lặn được như xưa nữa. Nàng dù có về bên Kim Trọng – nhưng liệu nàng sẽ còn mặn mà với chàng sau bao nhiêu gian khó, cay đắng? Nàng ý thức được bi kịch của nàng – là bi kịch không gì có thể cứu vãn được nữa. Nàng muốn đến đáp Kim Trọng, nhưng đã trễ rồi, nàng chỉ mong được quỳ lạy trước Kim Trọng cầu xin chàng tha thứ.

“Ví không duyên nợ kiếp xưa

Kiếp này hồ dễ tình cờ xui nên”(5)

Kiều và Kim Trọng đã có duyên, thế mà duyên chỉ ngắn ngủi trong phút chốc, mà phận cũng chẳng có. Kiều chỉ có thể trách ‘phận sao phận bạc như vôi’, nhưng liệu nàng có thể làm gì? Người đời sợ cảnh ‘Lạc hoa hữu ý tùy lưu thủy/ Lưu thủy vô tình luyến lạc hoa(6)’ hay ‘Mạc đãi vô hoa không chiết chi(7)’, nhưng mấy ai hiểu được ‘Chỉ thị đương thời dĩ võng nhiên (Một thuở đau lòng chữ nợ duyên)(8)’. Kiều và Kim Trọng đã cùng nhau thề nguyền, cùng nâng chén ngọc, nhưng cuối cùng chỉ có thể thốt lên rằng ‘Ly loan biệt phụng kim hà tại?(9)’. Trò đùa dai của số phận, nó rình rập khắp mọi nơi, chuẩn bị vồ xé lấy ngươi bất cứ lúc nào(10).

Và Kiều đã phải khóc nấc lên – tiếng khóc nghẹn ngào và bất lực – tiếng khóc lột bỏ tất cả những lý trí, những mạnh mẽ, những kiên cường, thông minh sắc sảo mà nàng cố thể hiện ra.

“Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.”

Kiều không giống như Hồ Xuân Hương mà mỉa mai Tổng Cóc ‘Chàng Cóc ơi chàng Cóc/ Thiếp bén duyên chàng có thế thôi(11)’. Chúng ta bất chợt nhận ra Kiều chỉ là một cô gái tuổi đôi mươi, yếu đuổi và mỏng manh đến thế nào. Nàng chỉ có thể phụ Kim Trọng – nàng không muốn phụ Kim Trọng, nhưng nàng biết làm sao bây giờ? Nàng dù dám ‘xăm xăm băng lối vườn khuya một mình’ để gặp tình quân, nhưng nàng vẫn chẳng dám phá vỡ hết thảy lề lối phong kiến – những lề lối đã ăn sâu vào nàng. Và Kim Trọng cũng chẳng phải kẻ có tiền có quyền để đủ sức bảo vệ nàng. Cả hai đều bất lực trước những bất hạnh do thứ mang tên xã hội phong kiến đẩy đến.

“Ba nghìn thế giới nha giết hết

Cùng quân cộng chẩm đáo bình minh”(12)

Kiều có lẽ chỉ mong muốn như thế – ‘cùng quân cộng chẩm đáo bình minh’, nhưng chỉ tiếc, cả nàng và Kim Trọng đều muộn. Đoạn trích Trao duyên mở đầu cho cung đàn bạc mệnh của Kiều, mở đầu cho cuộc đời thứ hai của kiều – cuộc đời đầy những sóng gió, những trớ trêu, đau đớn, những nhơ nhuốc mà xã hội phong kiến đương thời có thể ập đến với một thiếu nữ thơ ngây, xinh đẹp, tài hoa.

Nguyễn Du đã rất xuất sắc trong việc khắc họa Kiều với hai trạng thái đối lập – một Kiều sắc sảo và một Kiều yếu đuối, mất đi lý trí. Và có lẽ chỉ Nguyễn Du – một người cũng trải qua những năm tháng lưu lạc như Kiều, một người chịu đủ cảnh sang hèn bần quý – mới có thể thấu hiểu nàng đến vậy.

0