Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều – Văn hay lớp 9
Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều – Văn hay lớp 9 Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều – Bài làm số 1 của học sinh giỏi văn tỉnh Đăk Lắk Trong xã hội phong kiến suy tàn đầy áp bức, bất công thì người phụ nữ là nạn nhân khốn khổ nhất. Thi hào Nguyễn Du viết về họ với ...
Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều – Văn hay lớp 9
Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều – Bài làm số 1 của học sinh giỏi văn tỉnh Đăk Lắk
Trong xã hội phong kiến suy tàn đầy áp bức, bất công thì người phụ nữ là nạn nhân khốn khổ nhất. Thi hào Nguyễn Du viết về họ với những lời thơ thống thiết: Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh củng là lời chung. Thời nhà thơ sống, dường như bạc mệnh đã trở thành quý luật chung của thân phận phụ nữ. Cuộc đời Thúy Kiều, một cô gái tài sắc vẹn toàn chứng minh cho quy luật ấy. Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều là nốt nhạc buồn, khởi đầu cho cung đàn bạc mệnh của đời nàng.
Đoạn trích nằm ở phần hai (Gia biến và lưu lạc) trong Truyện Kiều. Sau khi bị thằng bán tơ vu oan, gia đình Thúy Kiều lâm vào cảnh tan tác, đau thương. Của cải bị cướp đoạt, cha và em trai Kiều bị lũ sai nha đầu trâu mặt ngựa bắt bớ, khảo tra. Cái giá mà chúng đưa ra thật là khủng khiếp: Có ba trăm lạng việc này mới xong. Kiều đành gạt nước mắt, gác mối tình đầu với Kim Trọng để bán mình chuộc cha và em ra khỏi chốn lao tù
Bút pháp tả thực sắc sảo, tài tình của Nguyễn Du đã vẽ nên chân dung sống động của Mã Giám Sinh, tên lưu manh bán thịt buôn người; đồng thời thế hiện nỗi đau đớn, tuyệt vọng của Thúy Kiều – người con gái tài sắc tuyệt vời mà bị coi như một thứ hàng hóa vô tri, bị mua đi bán lại không chút xót thương. Lời tố cáo tội ác của xã hội phong kiến suy tàn và lời kêu gọi thông thiết: Hãy cứu lấy con người của Nguyễn Du ẩn chứa sau từng hình ảnh, từ ngữ trong đoạn trích này.
Cái tin Kiều muốn bán mình đã gây xôn xao dư luận cả một vùng rộng lớn vì không ai không biết đến nàng – người con gái nức tiếng tài sắc vẹn toàn. Mã Giám Sinh đã nhờ người mai mối dẫn đến nhà để cưới nàng làm vợ lẽ.
Một điều dễ nhận thấy trong bút pháp tả người của Nguyễn Du là khi tả những nhân vật chính diện (như chị em Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải…) thì ông dùng bút pháp ước lệ ; còn tả những nhân vật phản diện (như Tú Bà, Mã Giám Sinh, Hồ Tôn Hiến…) thì ông dùng bút pháp tả thực. Qua công thức này, người đọc có thể xác định nhân vật thuộc loại nào và thái độ yêu ghét của nhà thơ ra sao. Mã Giám Sinh cũng không nằm ngoài công thức đó.
Cái tài của Nguyễn Du là không miêu tả dài dòng mà đi sâu vào những chi tiết tiêu biểu, chọn lọc, thể hiện được thần thái của nhân vật. Không ai biết rõ tung tích Mã Giám Sinh, chỉ biết hắn là người từ phương xa tới (viễn khách). Hỏi hắn thì hắn trả lời cộc lốc: Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”. Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần”. Hai câu mà chỉ cung cấp được một thông tin nhỏ là hắn mang họ Mã. Còn tất cả đều mù mờ, không rõ ràng. Giám Sinh là tên gọi chung của các sinh viên trường Quốc tử giám chứ không phải là tên riêng. Còn huyện Lâm Thanh rộng bao la, ai biết hắn ở chỗ nào, gia thế ra sao? Cách nói năng của Mã đã bộc lộ một phần về con người hắn. Hắn chẳng có chút gì là nho nhã, thanh lịch của một chàng giám sinh, hạng người có học.
Hình dáng bên ngoài của Mã có nhiều mâu thuẫn. Tuổi tác: Quá niên trạc ngoại tứ tuần. Một loạt từ phỏng đoán đứng liền nhau {quá, trạc, ngoại), từ Việt có, từ Hán có, cùng với nhịp thơ chậm, ngập ngừng càng làm tăng cảm giác khó xác định tuổi tác của Mã. Ngoại tứ tuần có thế là bốn mốt, bốn hai; mà cùng có thể là bốn lăm, bôn sáu tuổi. Thuở ấy, đàn ông ngoại tứ tuần là sắp lên lão (ngữ tuần – năm mươi tuổi). Vậy mà diện mạo và cách ăn mặc của hắn lại cố làm ra vẻ trẻ trung như trai mới lớn: Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao. Những từ tả thực đến mức dung tục như nhẵn nhụi, bảnh bao đã hàm ý mỉa mai, cười cợt, châm biếm của Nguyễn Du đối với nhân vật này. Rõ ràng là Mã Giám Sinh cố tìm mọi cách dùng cái mẽ ngoài hào nhoáng để che đậy bản chất bên trong, nhưng nực cười thay, cái lố lăng, kệch cỡm của hắn vẫn cứ lộ ra.
Chỉ một câu: Trước thầy sau tớ lao xao, Nguyễn Du đã tô đậm cái cung cách đi hỏi vợ lạ đời của Mã Giám Sinh. Thầy tớ hắn có khác chi một lũ lưu manh lấc cấc, hỗn hào. Riêng Mã, thái độ của hắn là hợm hĩnh, vênh váo, cậy tiền, không thèm biết đến lễ nghi, phép tắc: Ghế trên ngồi tót sỗ sàng. Ghế trên là ghế dành riêng cho chủ nhà hoặc khách quý. Ngồi tót là ngồi rất nhanh, co cả hai chân lên, chẳng đợi ai mời, ai thỉnh. Sỗ sàng là ngổ ngáo, coi thường mọi người. Hành động ấy, thái độ ấy là của kẻ tiểu nhân vô học. Chỉ qua vài chi tiết, chân tướng Mã đã dần dần bộc lộ.
Khi mụ mối dẫn Kiều ra, Mã nhìn ngắm, xem xét nàng với đôi mắt của một tên lái buôn lọc lõi: Đắn đo cân sắc cân tài, Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ. Hắn ép Kiều phải đánh đàn, làm thơ để có cơ sở chắc chắn mà định giá nàng. Tài sắc Thúy Kiều làm cho hắn rất hài lòng: Mặn nồng một vẻ một ưa, Bằng lòng khách mới tùy cơ đặt dìu. Mã chắc mẩm trong bụng sẽ mua được món hàng vô giá, chuyến này ắt có lời to, nhưng hắn chẳng vội vàng mà còn Cò kè bớt một thêm hai, Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm. Thần tình thay là những tiếng chợ búa nôm na như cò kè, ngã giá của Nguyễn Du. Bằng mấy tiếng này, nhà thơ đã lột sạch áo mũ giám sinh giả và lời lẽ cố làm ra vẻ văn chương hoa mĩ cho đúng điệu giám sinh đi hỏi vợ: Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều, Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?… của gã lưu manh này. Trước mắt người đọc, chỉ còn lại một hiện thực trần trụi đáng sợ: Mã Giám Sinh – tên tú ông bán thịt buôn người đã lộ nguyên hình.
Đọc đoạn thơ này, chúng ta căm ghét, khinh bỉ Mã Giám Sinh bao nhiêu thì càng xót thương Thúy Kiều bấy nhiêu bởi người con gái tài sắc nhường ấy đã rơi vào nanh vuốt lũ sói lang. Nguyễn Du đã tả tâm trạng Kiều lúc bán mình hằng tất cả nỗi quằn quại, đau đớn, tưởng như nước mắt rơi, máu chảy ở đầu ngọn bút:
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng
Ngại ngùng dơn gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.
Mối càng vén tóc bắt tay,
Nét buồn như cúc điệu gầy như mai.
Vẫn bứt pháp ước lệ quen thuộc của Nguyễn Du khi tả những nhân vật chính diện mà ông yêu mến: lệ hoa, cúc, mai… vẻ đẹp của Kiều lúc bình thường đã khiến hoa ghen, liễu hờn, nghiêng nước nghiêng thành, thì lúc này, trong cơn đau khổ đến tột cùng, nàng vẫn đẹp – vẻ đẹp làm thổn thức lòng người. Nghệ thuật đối rất chỉnh đã được nhà thơ khai thác triệt để trong những dòng thơ tả Kiều. Tình cảm chân thành của tác giả đã phá vỡ tính khuôn sáo của bút pháp cổ điển và đem lại xúc động thực sự cho người đọc. Chúng ta thương Thúy Kiều và càng căm thù cái xã hội phong kiến thối nát đã làm tan nát gia đình nàng, đẩy nàng vào chôn đoạn trường đầy chông gai, bão tố.
Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều là một dẫn chứng chứng minh cho tài năng miêu tả tâm lí và xây dựng hình tượng nhân vật tài tình của đại thi hào Nguyễn Du. Truyện Kiều một trong muôn tiếng kêu thương trước số phận bất hạnh của người phụ nữ. Đồng thời, nó là lời kết án âm thầm mà không kém phần mãnh liệt cái xã hội phong kiến suy tàn đã sinh ra những kẻ bất lương như Mã Giám Sinh; Vì lợi ích cá nhân, chúng sẵn sàng chà đạp thô bạo lên nhân phẩm. Thông điệp mà nhà thơ Nguyễn Du muốn gửi đến tất cả chúng ta là: Hãy chặn đứng những bàn tay tội ác! Hãy cứu lấy con người!
Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều – Bài làm số 2
Đoạn Mã Giám Sinh mua Kiều dài 34 câu, trích trong Truyện Kiều từ câu 618 – 652. Bị thằng bán tơ vu oan, cha và em trai bị tra tấn, tù đày, tài sản gia đình bị bọn sai nha "sạch sành sanh vét cho đầy túi tham". Trước cảnh gia biến, Kiều đã quvết định: "Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha!".
Đoạn thơ ghi lại cảnh Mã Giám Sinh đến mua Kiều và nỗi đau khổ của nàng trước bi kịch gia đình và bi kịch tình yêu " trâm gãy bình tan".
Đoạn thơ tả cảnh mua bán người thời trung cổ được kể lại rất cụ thể, sống động. Người mua là Mã Giám Sinh kẻ bán là mụ mối. Người bị đem bán là Thúy Kiều. Khách viễn phương đến, mụ mối rước khách vào lầu trang. Mụ mối giục Kiểu "kíp ra” cho khách gặp. Mụ mối "vén tóc bắt tay" món hàng mình; Mã Giám Sinh "cân sắc cân tài". Khi khách đã "mặn nồng một vẻ một ưu" mới hỏi giá. Mụ mối thách: "một nghìn vàng". Hai bên "cò kè" mua bán với cái giá "vàng ngoài bốn trăm". Cuộc mua bán xong, hai bên làm thủ tục: '!đưa canh thiếp" và hẹn ngày chồng tiền nhận hàng. Cuộc mua bán người lại được dùng bằng những ngôn từ sang trọng như: mua ngọc, sính nghi, đưa canh thiếp làm nghi, nạp thái vu quy. Đúng như cảnh hỏi vợ, thách cưới của các gia đình quý tộc thời xưa.
Cảnh Mã Giám Sinh mua Kiều có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc. Trong xã hội có bọn buôn thịt bán người, có loại người làm mối, sống bằng nghề làm mối. Tài sắc của người con gái như Thúy Kiều đã trở thành một món hàng để "cò kè"mua bán. Nhân phẩm của người phụ nữ bị chà đạp. Câu thơ "Tiền lưng đã có, việc gì chẳng xong" là lời bình luận cuộc mua bán, lên án đồng tiền hôi tanh, mặt trái đồng tiền trong tay bọn bất lương, bọn buôn thịt bán người.
Đoạn thơ thể hiện nghệ thuật tả người của Nguyễn Du.
Mụ mối: nhanh nhảu, đon đả hỏi họ tên, quê quán viễn khách, rồi "rước vào lầu trang". Giục Kiều ra nhanh (kíp ra), "vén tóc bắt tay” Kiều, khôn khéo thách giá:
Mối ràng: Đáng giá nghìn vàng,
Dớp nhà nhờ lượng người thương dám nài!
Tác giả tả cử chỉ, ngôn ngữ mụ mối, làm hiện lên một loại người nhanh nhẹn, khôn khéo, giảo hoạt, kiếm ăn bằng nghề làm mối trong việc mua, bán người.
Mã Giám Sinh là "viễn khách" đến để "vấn danh" – khách đến hỏi vợ và xin cưới. Cách giới thiệu có vẻ trang trọng. Hai câu tiếp theo là "hỏi – đáp". Cách trả lời cộc lốc. khiếm nhã. Hai chữ "rằng" làm cho khẩu ngữ thêm thô lậu:
Hỏi tên, rằng: "Mã Giám Sinh ",
Hỏi quê, rằng: "Huyện Lâm Thanh cũng gần.
Mã Giám Sinh chung lưng vốn với mụ Tú Bà mở ngôi hàng lầu xanh ở Lâm Tri nhưng nói dối là quê ở "Lâm Thanh cũng gần". Hắn chỉ là một tên buôn thịt bán người nhưng mập mờ khoe hão là sinh viên trường Quốc Tử Giám, họ Mã, nghĩa là một trí thức phong kiến thuộc tầng lớp quý tộc. Nhân cách hé lộ dần. Ngoài bốn mươi tuổi mà vẫn trai lơ: "Nhẵn nhụị" và "bảnh bao"là hai nét vẽ châm biếm:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
Cũng "thầy"cũng "tớ", cũng "trước" cũng "sau", có vẻ sang trọng lắm, đi đâu một bước là có kẻ hầu người hạ, nhưng thầy, tớ của ông khách viễn phương này sao mà "lao xao"chẳng có nền nếp, lễ giáo gì! Cái cử chỉ "sỗ sàng", không biết ý tứ gì, không biết giữ lễ phép, dám đường đột leo lên ghế cao ngồi "tót"! Nếu là sinh viên trường Quốc Từ Giám thật, thì hắn ta rất kém sĩ hạnh!
Trước thầy sau tớ lao xao,
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng…
Một chữ “ tót” đầy khinh bỉ, đã vạch trần chân tướng kẻ "Quen mồi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa
"Cân sắc cân tài", "ép", "thử”,… những cử chi, cách thức mua người ấy của tên lái buôn họ Mã mới thật ghê tởm! Chỉ sau khi đã "mặn nồng một vẻ một ưa", Mã Giám Sinh mới "dặt dìu" mua bán. Hắn là kẻ khôn ngoan đến róc đời, trong mọi mánh lới buồn thịt bán người. Cũng sang trọng kiểu cách như ai. Chẳng qua chỉ là hoa hòe hoa sói thớ lợ:
Rằng: "Mua ngọc đến Lam Kiều ",
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường.
Hai chữ "cò kè" đã bóc trần bản chất bủn xỉn của một kẻ “ Quanh năm buôn phấn bán hương đã lẻ”
Qua nhân vật Mã Giám Sinh, ta càng thấy rõ bút pháp hiện thực trong tả người của Nguyễn Du. Nét vẽ nào cũng sắc sảo tạo nên tính cách rất sống của nhân vật Mã Giám Sinh. Chi tiết nghệ thuật nào cũng rất sống, đằng sau đó là thái độ khinh bỉ của nhà thơ đối với loại người bạc ác tinh ma này! Bức chân dung phản diện của Mã Giám Sinh có giá trị tố cáo hiện thực đặc sắc, lên án bọ buôn thịt bán người vô nhân đạo, đạo đức giả trong xã hội phong kiến suy tàn, thối nát.
Kiều là một thiếu nữ hiếu thảo, giàu đức hi sinh, Trước cảnh gia biến nàng bán mình để chuộc cha, để cứu gia đình. Nàng tự xem thân mình như "hạt mưa” nhỏ bé hèn mọn. Tất cả vì "ba xuân", một lòng đền đáp công ơn sinh thành của cha me:
Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,
Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.
Kiều sống trong tâm trạng bi kịch dữ dội giữa tình riêng với tình nhà, giữa chữ tình với chữ hiếu, "nỗi mình thêm tức nỗi nhà". Nàng vô cùng đau khổ. Bao nhiêu nước mắt, bao nhiêu "lệ hoa” đã tuôn rơi, cả người nàng như héo hon rũ xuống: "ngại ngùng",… "bóng thẹn",… "mặt dày", "nét buồn như cúc điệu gầy như mai” Vì là người đẹp đau khổ cho nên các ẩn dụ so sánh mà nhà thơ sử dụng đều gắn liền với cái đẹp: thềm hoa, lệ hoa "nét buồn như cúc, điệu gây như mai". Kiều bị mụ mối và Mã Giám Sinh "ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ". Mã Giám Sinh đã “đắn đo cân sắc cân tài". Con người Kiều, tài sắc Kiều đã trở thành món hàng đem ra mua bán. Nguyễn Du đã ca ngợi lòng hiếu thảo, đức hi sinh của Kiều trước gia biến, cảm thương cho nỗi đau khổ của nàng khi Mã Giám Sinh "cân sắc cân tài", khi bị hắn "cò kè bớt một thêm hai"… Đoạn thơ chứa chan tinh thần nhân đạo là ở những chi tiết nội dung ấy.
Mã Giám Sinh mua Kiều" là đoạn thơ có giá trị tố cáo đanh thép và sâu sắc nhất trong Truyện Kiều. Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tả thực sắc sảo giúp chúng ta thấy rõ được bộ mặt tàn ác, ghê tởm của bọn buôn thịt bán người trong xã hội, ở đây là Mã Giám Sinh. Nhà thơ đã lên án mặt trái đồng tiền hôi tanh: "Tiền lưng đã có, việc gì chàng xong!". Đồng cảm, xót thương cho số phận nàng Kiều: phải bán mình chuộc cha. Thương tiếc tài sắc giai nhân bị dâp vùi. Đó là giá trị nhân đạo.
Đoạn thơ thể hiện bút pháp nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Du trong sự tả cảnh mua Kiều, trong tả người: tả Mã Giám Sinh, tả mụ mối thì sử dụng bút pháp hiện thực, chi tiết hiện thực; tả Kiều thì thiên về ước lệ. Rất biến hóa, tài tình. Ngôn ngữ mang sắc thái biểu cảm đầy ấn tượng.
Tóm lại, cảnh Mã Giám Sinh mua Kiều có giá trị tố cáo hiện thực và chứa chan tinh thần nhân đạo. Đoạn thơ là sự khởi đầu tiếng kêu thương của một kiếp đoạn trường
Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều – Bài làm số 3
Truyện Kiều là một tác phẩm kiệt tác của nền văn học Việt Nam, đây là tác phẩm lớn và có giá trị cao về mặt nội dung cũng như nghệ thuật của đại thi hào Nguyễn Du. Truyện Kiều không chỉ là tác phẩm lớn của văn học trung đại Việt Nam mà đây còn là tác phẩm góp phần đưa nền văn học Việt Nam đến với độc giả trên thế giới. Truyện Kiều là tác phẩm thơ Nôm viết về nhân vật Thúy Kiều, một con người “tài sắc vẹn toàn”, một con người tài hoa xuất chúng, nhưng càng tài hoa bao nhiêu thì cuộc đời của cô gái này càng bất hạnh, thăng trầm bấy nhiêu. Vốn là một tiểu thư đài các sang trọng, cao quý nhưng những biến cố bất ngờ ập đến với gia đình Thúy Kiều đã vô tình đẩy nàng vào biến cố lớn nhất của cuộc đời mình. Đoạn trích đánh dấu chuyển biến của cuộc đời Thúy Kiều từ một tiểu thư cao quý sang cuộc sống đầy cay đắng của một cô gái lầu xanh, đó chính là đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”.
Đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” là đoạn trích miêu tả cảnh Thúy Kiều bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy tiền cứu cha và cả gia đình. Qua cuộc ngã giá mua bán ấy ta thấy được tâm trạng đau khổ của Thúy Kiều cũng như lột trần bản chất xấu xa, giả dối của Mã Giám Sinh, lên án thế lực đồng tiền đã chèn ép, bức con người vào bước đường cùng của sự đau khổ. Mở đầu bài thơ là không gian của cuộc mua bán, đó chính là hình ảnh của mụ mối khi dắt vào một người khách xa lạ, người sẽ mua Kiều:
“Gần miền có một mụ nào
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh
Hỏi tên rằng Mã Giám Sinh
Hỏi quê rằng Huyện Lâm Thanh cũng gần”
“Mụ nào” ở đây ta có thể hiểu là bà mối, trước yêu cầu Thúy Kiều thì bà mối này đã dắt đến một người khách lạ “Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh”, hỏi ra thì hắn tên là Mã Giám Sinh, cái tên này thể hiện hắn ta là một người có học, mà cụ thể hơn là một nho sinh của trường Quốc Tử Giám, người ở Lâm Thanh. Nghe lời giới thiệu đầy nhiệt tình, tha thiết của mụ mối thì Mã Giám Sinh có vẻ là một người đàng hoàng, có gốc gác lại còn là một nho sinh có học, nhưng không để cho người đọc tò mò lâu, ngay những câu thơ sau đó thì Nguyễn Du đã cho người đọc biết trọn vẹn về bản chất của con người ngỡ như là tử tế, có học này:
“Quá niên trạc tuổi tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao
Trước thầy sau tớ lao xao
Nhà băng đưa lối rước vào lầu trang”
Khác với cái tên đầy thư sinh, gốc gác rõ ràng để chứng minh là người tử tế thì những mô tả ngoại hình lại mang đến một cảm giác trái ngược hẳn, đó là một người đàn ông đã “trạc tuổi tứ tuần” có nghĩa là đã hơn bốn mươi tuổi, hơn thế nữa “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”. Trong xã hội phong kiến xưa thì tứ tuần có thể xem là người trung niên, với một độ tuổi như vậy mà vẫn còn là một nho sinh trường Quốc Tử Giám thật khiến cho người khác có cảm giác khó tin, hơn nữa sự chải chuốt quá đà ở diện mạo, trang phục lại gợi ra hình ảnh của một con người có phần lố lăng, kệch cỡm, vì dù đã nhiều tuổi nhưng vẫn cố tỏ ra rằng mình còn trẻ. Chỉ xét ngoại hình thôi cũng thể hiện được sự giả tạo đáng coi thường ở nhân vật này.
“Ghế trên ngồi tót sỗ sàng
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”
Quả nhiên như ta dự đoán, không chỉ có diện mạo trơ trẽn, lố lăng mà ngay cả hành động cũng thể hiện sự vô học, vô giáo dục, khác hẳn với cái mác thư sinh mà hắn ta giới thiệu “Chỗ trên ngồi tót sỗ sàng”. “Chỗ trên” ở đây là để dành cho những người trên ngồi, tức những bậc sinh thành, những bậc tiền bối, nhưng ở đây Mã Giám Sinh đã không hề biết đến phép tắc cơ bản ấy, hoặc cũng có thể biết nhưng vẫn cố tình ngồi, vì hắn ta vẫn đang tự cho mình là người có thế chủ động, bởi hắn ta sẽ bỏ tiền ra để mua Kiều. Hắn tự cho mình cái quyền được lộng hành, thể hiện một cách vô giáo dục như vậy. Không chỉ chủ là Mã Giám Sinh mà những tên đầy tớ của hắn ta cũng tỏ rõ là những người đi thuê, đi mượn, bởi nếu đúng là đầy tớ của hắn thì sẽ không có cái cảnh lao xao, lộn xộn như thế “Trước thầy sau tớ lao xao”. Trái với sự ngỗ ngược, hống hách của chủ tớ Mã Giám Sinh thì nàng Kiều lại vô cùng đau khổ.
“Nỗi mình thêm tức nỗi nhà”, lúc này đây Thúy Kiều đang mang nặng những tâm trạng, suy tư cùng với sự đau khổ bởi nàng biết rồi sau đó nàng sẽ phải trải qua những đắng cay, đau khổ vì cuộc hôn nhân được mua bằng tiền mà không hề có tình yêu này. Lúc này nàng vừa buồn, vừa tủi cho mình nhưng cũng lại chồng chất thêm nỗi lo lắng cho bố mẹ và các em. “Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng” những bước chân của nàng giờ đây mới thật đau đớn, nặng nề làm sao, bởi trên đôi vai nàng nặng trĩu những đau khổ cũng như những trách nhiệm lớn lao mà bổn phận của một người con phải làm, những giọt nước mắt của nàng rơi xuống làm cho người đọc cảm thấy xót xa, thương cảm.
“Ngại ngùng dợn gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày
Mối càng vén tóc bắt tay
Nét buồn như cúc điệu gầy như mai”
Trước tương lai đầy bất định,Thúy Kiều dường như đã có những dự cảm về cuộc đời mình, những dự cảm ấy làm cho Kiều cảm thấy lo sợ, ngại ngùng, bởi đó sẽ là những ngày tháng đầy đau khổ “Ngại ngùng dợn gió e sương”, đây cũng là tâm trạng tất yếu của con người khi đứng trước những sóng đó, những dự cảm không lành. Nét buồn bã, đau khổ không thể kiềm nén mà thể hiện ra hết trên gương mặt của nàng Kiều “Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày”. Trước dự đau khổ, u uất của nàng thì mụ mối vẫn đang rất chuyên tâm, nhiệt tình với công việc của mình “mối càng vén tóc bắt tay”, gương mặt buồn bã của nàng Kiều được Nguyễn Du so sánh với nét buồn của cúc và sự mỏng manh, yếu gầy như những cánh mai “Nét buồn như cúc điệu gầy như mai”
“Đắn đo căn sắc cân tài
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ
Mặn nồng một vẻ một ưa
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu”
Đến câu thơ này, hình ảnh của Thúy Kiều hiện lên thật đáng thương, bởi họ coi nàng như một món hàng dùng để trao đổi, buộc nàng phải trổ tài đánh đàn, làm thơ “Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ”, khi đã rất hài lòng với người mà mình sẽ mua thì Mã Giám Sinh và mụ mối bắt đầu cuộc ngã giá của mình “Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu”. Một con người tài sắc như vậy, tài năng trời phú ấy không phải thể hiện ở một dịp nào khác hơn mà dùng để làm vừa lòng người mua mình, sự tình ấy thật xót xa làm sao, đau đớn làm sao.
“Rằng mua ngọc đến Lam Kiều
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường
Mối rằng đáng giá ngàn vàng
Dớp nhà nhờ lượng người thương dám nài”
Vậy là cuộc ngã giá đầy căng thẳng giữa mụ mối và tên buôn Mã Giám Sinh đã diễn ra. Đến đây, Mã Giám Sinh thể hiện rõ bản chất của một con buôn nhưng đầu tiên hắn ta vẫn cố khoác lên mình cái vẻ trí thức đầy giả tạo “Rằng mua ngọc đến Lam Kiều” nhưng cũng chỉ ngay sau đó thôi thì bản chất con buôn cũng được thể hiện ra rõ mồn một, với sự sành sỏi vốn có, hắn ta đã cò kè “bớt một thêm hai”, và cuối cùng thì sự lọc lõi ấy đã mang lại cho hắn ta một món hời khi trả giá từ “ngàn vàng” xuống còn “ngoài bốn trăm”.
Đoạn trích Mã Giám Sinh mua kiều là một đoạn trích vạch trần đến tận cùng của cái xã hội “ăn thịt người”, khi con người bị mang ra mua bán như một thứ hàng hóa ở chợ. Đoạn trích này cũng thể hiện được bản chất xấu xa, giả dối của Mã Giám Sinh cũng như tâm trạng đầy đau khổ, bế tắc của nàng Kiều trước bước ngoặt của cuộc đời mình.
Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều – Bài làm số 4
Đang sống trong hạnh phúc của mối tình đầu say mê, trong trắng với Kim Trọng thì bất ngờ gia đình Kiều bị vu oan, giáng hoạ. Không đành lòng để cho gia đình tan nát, Thuý Kiều đau đớn trao duyên cho Thuý Vân, tự nguyện bán mình để lấy tiền cứu cha và em trai. Lợi dụng tình cảnh đau đớn của Kiều, Mã Giám Sinh “vốn là một đứa phong tình đã quen” đánh tiếng cưới nàng về làm thiếp nhưng thực sự là hắn mua Kiều về cửa hàng thanh lâu của hắn với mụ Tú Bà ở Lâm Tri. Đoạn trích này miêu tả màn kịch mua bán, qua đó “lột mặt nạ” của Mã Giám Sinh và thể hiện nỗi đau đớn ê chề, mở đầu cho đoạn trường mười lăm năm lưu lạc đầy cay đắng của nàng Kiều.
Với ngòi bút sắc sảo trong miêu tả và nỗi căm ghét của nhà thơ, Nguyễn Du đã lột tả bộ mặt bỉ ổi, tàn ác, ghê tởm của bọn “buôn bán thịt người”. Trong màn kịch này, Mã Giám Sinh đóng vai chàng sinh viên Quốc Tử Giám đến để làm “lễ vấn danh”, xem mặt, dạm hỏi Thuý Kiều về làm vợ lẽ. Gã sinh viên giả hiệu “người viễn khách” mờ ám này, mù mờ từ tên họ đến tên quán. Và ngòi bút thần tình của Nguyễn Du cứ mỗi nét lại khắc hoạ rõ hơn chân dung của Mã Giám Sinh và cái bản chất con buôn ghê tởm của hắn:
“Quá niên trạc ngoại tứ tuần…“Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”
Mã Giám Sinh đã “ngoại tứ tuần” mà vẫn “áo quần bảnh bao”, “mày râu nhẵn nhụi”, rõ ra một gã trai lơ. Lũ thầy, tớ chúng kéo đến nhà Kiều thật là nhốn nháo, lố lăng … và cái cử chỉ “ghế trên ngồi tót sỗ sàng” đã làm rơi cái mặt nạ sinh viên, phơi bày chân tướng của một tên vô học, thô lỗ của hắn.
Nguyễn Du cứ “khách quan” miêu tả cảnh mua bán vậy mà cái bản chất thật của Mã Giám Sinh vẫn bị lột trần, phơi bày bằng hết. Dẫu được khéo léo che đậy bằng mọi thứ mánh lới xảo quyệt nhưng diện mạo, thái độ, cử chỉ, hành vi và ngôn ngữ của hắn vẫn tự tố cáo bản chất đích thực của một tên “buôn thịt bán người” đê tiện.
Trong con mắt của Mã Giám Sinh, nàng Kiều cùng với tài sắc của nàng chỉ là một món hàng rồi đây sẽ sinh lợi cho hắn. Hắn đắn đo khi “cân sắc, cân tài”, hắn “ép”, hắn “thử” tài nghệ của nàng; nhấc lên, đặt xuống, xoay vần đủ kiểu hệt như người ta mua bán một món hàng. Khi đã hoàn toàn vừa ý, bản chất con buôn của hắn vẫn còn lộ ra ở cái thái độ “tuỳ cơ dặt dìu” khi mặc cả. Bản chất đó còn được che đậy bằng những lời lẽ mĩ miều, sang trọng:
“ Rằng mua ngọc đến Lam Kiều
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”
Thì cuối cùng bộc lộ một cách trắng trợn và bỉ ổi nhất:
“Cò kè bớt một, thêm hai
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm”
Với sự mặc cả “cò kè” ti tiện, bẩn thỉu này, màn kịch “lễ vấn danh” lộ rõ thực chất là một cảnh “mua thịt bán người” một cách trắng trợn và Mã Giám Sinh hiện nguyên hình là một tên con buôn ghê tởm và đê tiện nhất.
Trong đoạn trích này, hình ảnh Thuý kiều hiện ra với tất cả những buồn khổ, xót xa, ê chề, tủi hổ. Là một cô gái tài sắc vẹn toàn, đang sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ, màn che, tường đong ong bướm đi về mặc ai”, lại đang ngây ngất trong hạnh phúc của mối tình đầu trong trắng thì thình lình tai hoạ ập đến, Kiều trở thành một món hàng cho bọn “buôn thịt, bán người” trao tay mua bán, cò kè, mặc cả. Tâm hồn nhạy cảm của nàng đã cảm nhận sâu sắc cảnh ngộ éo le, vừa hổ thẹn, vừa dơ dáy, vừa đau đớn, nhục nhã của mình:
“ Nỗi mình thêm tức nỗi nhà…………..Ngừng hoa bỗng thẹn, trông gương mặt dày”.
Kiều vừa xót xa cho mối tình của mình (nỗi mình), vừa xót xa cho gia đình (nỗi nhà), lệ rơi khôn cầm. Kiều ra với Mã Giám Sinh như cành hoa đem ra trước sương gió, cho nên “ dợn gió, e sương”, vì sương gió làm cho hoa tàn, hoa rụng. Và vì tự ví mình với hoa nên thẹn thùng khi nhìn thấy hoa, tự thấy không xứng với hoa. Đó là cái đạo đức thầm kín của Kiều. Trong khi đó mụ mối cứ giới thiệu Kiều như một món hàng, một đồ vật: “vén tóc, bắt tay” cho khách xem. Bắt nàng làm thơ, đánh đàn cho khách thấy. Còn Kiều thì “nét buồn như cúc, điệu gầy như mai”.
Trong màn kịch “lễ vấn danh” này, dưới sự “đạo diễn” của mụ mối và theo đòi hỏi, nài ép của Mã Giám Sinh, Kiều “nhất cử, nhất động” đánh đàn, làm thơ như một “cái máy”. Bán mình để chuộc cha, cứu em là hành động tự nguyện của nàng nên nàng chịu đựng và cam chịu tất cả. Qua ngòi bút của Nguyễn Du, nàng Kiều hiện lên với sự im lặng tuyệt đối mà vẫn không sao dấu được sự đau đớn, xót xa, tủi nhục, ê chề bởi nàng là người luôn có ý thức về nhân phẩm mà lại bị chà đạp lên nhân phẩm một cách nhục nhã. Kiều đau uất trước cảnh đời ngang trái, đau khi nghĩ tới”nỗi mình” – tình duyên dang dở, uất bởi “nỗi nhà” bị “vu oan giáng hoạ”, Bao trùm lên tâm trạng của Kiều là sự đau đớn, tái tê “thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng”!
Phải nói, trước sau, Nguyễn Du cũng đã miêu tả cảnh bán người như là cảnh “cành hoa đem bán cho thuyến lái buôn”
Bằng việc miêu tả ngoại hình, cử chỉ và ngôn ngữ đối thoại, Nguyễn du đã khắc hoạ được tính cách nhân vật, tác giả đã bóc trần bản chất xấu xa, đê tiện của Mã Giám Sinh, qua đó lên án những thế lực tàn bạo chà đạp lên tài sắc, nhân phẩm của người phụ nữ đồng thời bộc lộ sự thương cảm sâu sắc bởi nỗi đau oan trái của Thuý Kiều ngay từ buổi đầu của đoạn đời lưu lạc đầy bất hạnh của nàng.
Hồng Loan tổng hợp
Bài viết liên quan
- Phân tích trích đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích – Văn hay lớp 9
- Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – Văn hay lớp 9
- Phân tích đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán – Văn hay lớp 9
- Tả con gà trống nhà em – Văn hay lớp 5
- Thuyết minh về danh lam thắng cảnh Chợ Bến Thành – Văn hay lớp 8
- Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn – Văn hay lớp 9
- Phân tích trích đoạn Cảnh ngày xuân – Văn hay lớp 9
- Thuyết minh về chợ Bến Thành – Văn hay lớp 8