05/06/2017, 00:08
Phân tích đoạn trích “Đám tang lão Gôriô” của Banzắc.
Đám tang lão Gôriô được đặt vào một không gian, thời gian xác định với những con người và sự kiện có thực xảy ra - một đặc điểm bút pháp hiện thực của Banzắc, đem lại cho người đọc ấn tượng như thật về sự kiện được kể. Đó là ấn tượng về sự thê thảm, cô đơn, về số phận người nằm xuống - một người ...
Đám tang lão Gôriô được đặt vào một không gian, thời gian xác định với những con người và sự kiện có thực xảy ra - một đặc điểm bút pháp hiện thực của Banzắc, đem lại cho người đọc ấn tượng như thật về sự kiện được kể.
Đó là ấn tượng về sự thê thảm, cô đơn, về số phận người nằm xuống - một người cha tử tế và đứng đắn, có hai cô con gái giàu sang, là ấn tượng về nỗi nhạt nhẽo, vô ơn của tình người và sự lạnh lùng đến tàn nhẫn của cái xã hội tôn thờ đồng tiền. Đoạn trích có giá trị hiện thực và khái quát đến mức điển hình. Nó góp phần quan trọng vào việc thể hiện chủ đề tác phẩm.
Bố cục đoạn trích có thể xác định như sau:
- Đám tang từ quán trọ của bà Vôke đến nhà thờ và cuộc hành lễ tại nhà thờ.
- Đám tang đi từ nhà thờ đến nghĩa trang.
- Raxtinhắc sau đám tang.
Đám tang diễn ra trong một không gian, thời gian xác định. Lão Gôriô chết tại quán trọ của bà Vôke, cuộc hành lễ tổ chức tại nhà thờ Thánh Êchiên duy Mông và chôn cất tại nghĩa địa cha Lasezơ. Đấy là con đường đi đến nơi an nghỉ cuối cùng của lão Gôriô.
Cảnh chiều tàn, không khí ảm đạm, vắng vẻ. Ánh sáng và màu sắc càng thê lương trên nghĩa địa, khi cuối cùng, phía xa xa, trung tâm thành phố đã lên đèn. Buổi lễ cầu hồn diễn ra dưới ánh sáng lờ mờ của một giáo đường nhỏ, thấp và tối. Lễ chôn cất thực hiện trọng buổi Hoàng hôn ẩm ướt. Khung cảnh thật rầu rĩ, thê thảm.
Đám tang còn thê thảm hơn với một thời gian nghi lễ vội vàng, gấp rút, qua quýt: nghi lễ trong nhà thờ hết hai mươi phút, giờ đưa ra nghĩa địa là năm giờ rưỡi, sáu giờ rưỡi hạ huyệt. Tác giả nêu sự chính xác đến từng phút. Công việc vội vã, sơ sài, dường như còn thể hiện ở cả những dòng văn ngắn ngủi: một bài thánh kinh, bài kinh siêu độ, bài kinh cầu hồn, bài kinh đọc lúc hạ huyệt ngắn ngủi, đọc xong là nhà đạo biến ngay. Dường như không ai nghe thấy những lời cầu kinh của các vị nhà đạo, tiếng của chú bé hát lễ, tiếng khóc của người thân và bạn bè.
Người ta thường đo tính chất trang trọng của đám tang bằng kích thước thời gian. Bởi đây là những nghi lễ cuối cùng đối với người đã khuất. Nhưng đám tang lão Gôriô lại là một đám tang buồn thảm, vội vã, sơ sài, qua quýt. Yếu tố thời gian đã được nhấn mạnh để làm tăng ấn tượng trên.
Nỗi bi đát thật sự, nỗi đau đớn tận cùng đối với số phận người ra đi là đám tang không có người đưa đám, như nhận xét của vị linh mục. Kể làm gì những kẻ khiêng đòn, phu đào huyệt, đám người nhà thờ. Một người cha tử tế và đứng đắn, chưa bao giờ to tiếng, không hề làm hại ai, vậy mà đến lúc nằm xuống, trong giờ phút “nghĩa tử là nghĩa tận” (tức nghĩa vụ cuối cùng với một con người) con cháu chẳng một ai, không một kẻ thân thích kề bên. Vậy mà lão Gôriô có những hai cô con gái! Hai cô con gái yêu quý mà anh đang được đặt trên ngực lão Gôriô: cái hình ảnh thuộc về một thời mà Đenphin và Anaxtazi còn bé bỏng, lúc hấp hối lão còn nhắc đến tên. Hai cô con gái sống ở rất gần mà lúc ở nhà thờ, Raxtinhắc hoài công để ý tìm nhưng không hề thấy. Hai cô con gái giàu sang mà ngay đến cả bài kinh ngắn ngủi cầu cho ông cụ cũng do chàng sinh viên nghèo trả tiền.
Một “nhân vật” đặc biệt xuất hiện trong đám tang: hai cỗ xe không người hiện diện của nó chỉ làm tăng nỗi bi đát của người đã khuất. Đây chính là “người đại diện” cho hai nhân vật quan trọng nhất của đám tang: hai cô con gái, những người thân cuối cùng, duy nhất của lão Gôriô. Rõ ràng, hai cô và hai gia đình đều biết chuyện bố mất, nhưng họ đều “bận” không đến được, và không hẹn mà cùng cử hai chiếc xe đến thay, không người, không tiền bạc.
Hai cái xe không diễn tả được việc vừa có mặt vừa vắng mặt của hai cô con gái. Vắng mặt thật và có mặt giả. Nếu không có hai chiếc xe ấy, linh hồn người cha xấu số đỡ bất hạnh hơn. “Nhân vật” hai cỗ xe không qua đã có khả năng hùng hồn trong việc diễn ta sự nhẫn tâm vô bờ của con người trong quan hệ máu mủ, ruột rà.
Còn có một sức mạnh vô hình ám ảnh dám tang lão Gôriô. Là nguyên nhân của nỗi bạc bẽo của người đời, của người thân thích đối với người đã khuất - đó chính là đồng tiền. Trong một đám tang, người ta ít nhắc đến tiền, bởi ở đó, không khí thành kính với người đã khuất và nỗi đau thương của người đang sống ngự trị tất cả. Vậy mà Banzắc đã không ngần ngại nhắc đến tiền - biểu tượng của sự lạnh lùng, sòng phảng, trong đoạn văn rất ngắn này: anh ta (Crixtôphơ) kiếm được mấy món tiền kha khả, những nghi lễ xứng đáng với giá tiền bảy mươi quan, bài kinh ngắn ngủn... chàng sinh viên trả tiền, hai gã đào huyệt mới hất được vài xẻn đất đã đòi tiền đãi công. Tất cả các chi tiết này đã qui tụ lại hình ảnh tuy lạc lõng với đám tang nhưng có sức mạnh chi phối quan hệ giữa người và người: tiền.
Đám tang đã chôn lão Gôriô, người cha bất hạnh. Nhưng không chỉ như vậy. Một nhân vật có mặt suốt từ đầu đến cuối đám tang là Raxtinhăc. Đó là một chàng sinh viên nghèo, sống cùng quán trọ với lão Gôriô, biết tường tận về sự giàu sang cũng như sự nhẫn tâm của các cô con gái Gôriô và tình yêu thương con cũng như sự bất hạnh đau khổ của lão. Lão Gôriô chết, chàng một mình chạy đến báo tin cho các cô con gái, tự mình đưa quan tài lão Gôriô đi làm lễ chôn cất và tự trả tiền tất cả. Trước sự tàn nhẫn, vô ơn của những đứa con, sự lạnh lùng, sòng phảng của người đời, chàng đã nghẹn ngào rơi nước mắt: giọt nước mắt... của một trái tim trong trắng, thứ nước mắt rơi xuống mặt đất rồi từ đó lại vút lên trời cao.
Nhưng đấy lại là giọt nước mắt trong trắng cuối cùng của Raxtinhăc. Từ đây, tính cách chàng đã thay đổi. Sự kiện cuối cùng này của tiểu thuyết Lão Gôriô được tiếp tục ở những tiểu thuyết khác: Raxtinhăc chấp nhận lối sống tư sản, tàn bạo, nhẫn tâm, và cố gắng bằng đủ mọi thủ đoạn xấu xa để ngoi lên trong xã hội tư sản.
Do vậy, còn có thể nói, đám tang lão Gôriô cũng đã chôn vùi luôn cả hình ảnh một thanh niên trong trắng, biết yêu thương, biết xúc động trước những tình cảm chân thật của con người, biết căm giận cái ác, cái tàn nhẫn, xấu xa... để chỉ còn lại một kẻ tán thành chính lối sống tàn bạo, nhẫn tâm, sặc mùi tư sản ấy.
Đoạn trích đã thể hiện tài năng của Banzắc trong việc sử dụng các chi tiết hiện thực không chỉ mang ý nghĩa hiện thực sâu sắc mà còn có ý nghĩa điển hình và khái quát cao. Bên cạnh những chi tiết đời sống chân thực như chuyện cử hành tang lễ vội vàng trong một không gian chật hẹp, thời gian ngắn ngũi, ai cũng nghĩ đến tiền bạc trong cái đám tang nghèo khó này, hai cỗ xe không người đi đưa đám..., nhà văn đôi khi vẫn sử dụng yếu tố tượng trưng, kì ảo. Đó là hình ảnh giọt nước mắt chân thực, trong trắng, đầy tình thương của chàng sinh viên nghèo, giọt nước mắt rơi xuống đất rồi lại vút lên trời cao. Một yếu tố kì ảo nhất trong vô số các chi tiết hiện thực chính xác. Nó bộc lộ sự đánh giá và những tình cảm chủ quan của nhà văn bên sự khách quan lạnh lùng của việc miêu tả hiện thực. Tất cả đã góp phần tạo dựng nên bức tranh xã hội và tình người rất toàn vẹn, tinh vi và sâu sắc của Banzắc, “bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực”.
Về tác phẩm, chính Banzắc đã phát biểu: “Lão Gôriô, cuốn sách tuyệt vời, nhưng buồn ghê gớm là buồn, để nói lên sự thật đầy đủ, phải vạch ra cái đạo đức thối tha của Pari”. Chọn vấn đề cha con để miêu tả, Banzắc đã trình bày bi kịch của lão Gôriô - một người cha - một bi kịch không chỉ có tính chất cá nhân mà mang ý nghĩa xã hội. Sự tan vỡ của tình cha con là hậu quả của một xã hội bị thế lực của đồng tiền thống trị. Vào giờ phút hấp hối, người cha bị ruồng bỏ, “vua Lia của thế kĩ XIX”, nhận thấy tai họa của sự đổ vỡ gia đình, cá nhân: “Tổ quốc sẽ bị diệt vong nếu như những người cha bị giày xéo dưới chân xã hội, thế giới dựa trên tình cha con, tất cả sẽ sụp đổ nếu những đứa con không còn yêu thương cha chúng nữa”.
Bố cục đoạn trích có thể xác định như sau:
- Đám tang từ quán trọ của bà Vôke đến nhà thờ và cuộc hành lễ tại nhà thờ.
- Đám tang đi từ nhà thờ đến nghĩa trang.
- Raxtinhắc sau đám tang.
Đám tang diễn ra trong một không gian, thời gian xác định. Lão Gôriô chết tại quán trọ của bà Vôke, cuộc hành lễ tổ chức tại nhà thờ Thánh Êchiên duy Mông và chôn cất tại nghĩa địa cha Lasezơ. Đấy là con đường đi đến nơi an nghỉ cuối cùng của lão Gôriô.
Cảnh chiều tàn, không khí ảm đạm, vắng vẻ. Ánh sáng và màu sắc càng thê lương trên nghĩa địa, khi cuối cùng, phía xa xa, trung tâm thành phố đã lên đèn. Buổi lễ cầu hồn diễn ra dưới ánh sáng lờ mờ của một giáo đường nhỏ, thấp và tối. Lễ chôn cất thực hiện trọng buổi Hoàng hôn ẩm ướt. Khung cảnh thật rầu rĩ, thê thảm.
Đám tang còn thê thảm hơn với một thời gian nghi lễ vội vàng, gấp rút, qua quýt: nghi lễ trong nhà thờ hết hai mươi phút, giờ đưa ra nghĩa địa là năm giờ rưỡi, sáu giờ rưỡi hạ huyệt. Tác giả nêu sự chính xác đến từng phút. Công việc vội vã, sơ sài, dường như còn thể hiện ở cả những dòng văn ngắn ngủi: một bài thánh kinh, bài kinh siêu độ, bài kinh cầu hồn, bài kinh đọc lúc hạ huyệt ngắn ngủi, đọc xong là nhà đạo biến ngay. Dường như không ai nghe thấy những lời cầu kinh của các vị nhà đạo, tiếng của chú bé hát lễ, tiếng khóc của người thân và bạn bè.
Người ta thường đo tính chất trang trọng của đám tang bằng kích thước thời gian. Bởi đây là những nghi lễ cuối cùng đối với người đã khuất. Nhưng đám tang lão Gôriô lại là một đám tang buồn thảm, vội vã, sơ sài, qua quýt. Yếu tố thời gian đã được nhấn mạnh để làm tăng ấn tượng trên.
Một “nhân vật” đặc biệt xuất hiện trong đám tang: hai cỗ xe không người hiện diện của nó chỉ làm tăng nỗi bi đát của người đã khuất. Đây chính là “người đại diện” cho hai nhân vật quan trọng nhất của đám tang: hai cô con gái, những người thân cuối cùng, duy nhất của lão Gôriô. Rõ ràng, hai cô và hai gia đình đều biết chuyện bố mất, nhưng họ đều “bận” không đến được, và không hẹn mà cùng cử hai chiếc xe đến thay, không người, không tiền bạc.
Hai cái xe không diễn tả được việc vừa có mặt vừa vắng mặt của hai cô con gái. Vắng mặt thật và có mặt giả. Nếu không có hai chiếc xe ấy, linh hồn người cha xấu số đỡ bất hạnh hơn. “Nhân vật” hai cỗ xe không qua đã có khả năng hùng hồn trong việc diễn ta sự nhẫn tâm vô bờ của con người trong quan hệ máu mủ, ruột rà.
Còn có một sức mạnh vô hình ám ảnh dám tang lão Gôriô. Là nguyên nhân của nỗi bạc bẽo của người đời, của người thân thích đối với người đã khuất - đó chính là đồng tiền. Trong một đám tang, người ta ít nhắc đến tiền, bởi ở đó, không khí thành kính với người đã khuất và nỗi đau thương của người đang sống ngự trị tất cả. Vậy mà Banzắc đã không ngần ngại nhắc đến tiền - biểu tượng của sự lạnh lùng, sòng phảng, trong đoạn văn rất ngắn này: anh ta (Crixtôphơ) kiếm được mấy món tiền kha khả, những nghi lễ xứng đáng với giá tiền bảy mươi quan, bài kinh ngắn ngủn... chàng sinh viên trả tiền, hai gã đào huyệt mới hất được vài xẻn đất đã đòi tiền đãi công. Tất cả các chi tiết này đã qui tụ lại hình ảnh tuy lạc lõng với đám tang nhưng có sức mạnh chi phối quan hệ giữa người và người: tiền.
Đám tang đã chôn lão Gôriô, người cha bất hạnh. Nhưng không chỉ như vậy. Một nhân vật có mặt suốt từ đầu đến cuối đám tang là Raxtinhăc. Đó là một chàng sinh viên nghèo, sống cùng quán trọ với lão Gôriô, biết tường tận về sự giàu sang cũng như sự nhẫn tâm của các cô con gái Gôriô và tình yêu thương con cũng như sự bất hạnh đau khổ của lão. Lão Gôriô chết, chàng một mình chạy đến báo tin cho các cô con gái, tự mình đưa quan tài lão Gôriô đi làm lễ chôn cất và tự trả tiền tất cả. Trước sự tàn nhẫn, vô ơn của những đứa con, sự lạnh lùng, sòng phảng của người đời, chàng đã nghẹn ngào rơi nước mắt: giọt nước mắt... của một trái tim trong trắng, thứ nước mắt rơi xuống mặt đất rồi từ đó lại vút lên trời cao.
Nhưng đấy lại là giọt nước mắt trong trắng cuối cùng của Raxtinhăc. Từ đây, tính cách chàng đã thay đổi. Sự kiện cuối cùng này của tiểu thuyết Lão Gôriô được tiếp tục ở những tiểu thuyết khác: Raxtinhăc chấp nhận lối sống tư sản, tàn bạo, nhẫn tâm, và cố gắng bằng đủ mọi thủ đoạn xấu xa để ngoi lên trong xã hội tư sản.
Do vậy, còn có thể nói, đám tang lão Gôriô cũng đã chôn vùi luôn cả hình ảnh một thanh niên trong trắng, biết yêu thương, biết xúc động trước những tình cảm chân thật của con người, biết căm giận cái ác, cái tàn nhẫn, xấu xa... để chỉ còn lại một kẻ tán thành chính lối sống tàn bạo, nhẫn tâm, sặc mùi tư sản ấy.
Đoạn trích đã thể hiện tài năng của Banzắc trong việc sử dụng các chi tiết hiện thực không chỉ mang ý nghĩa hiện thực sâu sắc mà còn có ý nghĩa điển hình và khái quát cao. Bên cạnh những chi tiết đời sống chân thực như chuyện cử hành tang lễ vội vàng trong một không gian chật hẹp, thời gian ngắn ngũi, ai cũng nghĩ đến tiền bạc trong cái đám tang nghèo khó này, hai cỗ xe không người đi đưa đám..., nhà văn đôi khi vẫn sử dụng yếu tố tượng trưng, kì ảo. Đó là hình ảnh giọt nước mắt chân thực, trong trắng, đầy tình thương của chàng sinh viên nghèo, giọt nước mắt rơi xuống đất rồi lại vút lên trời cao. Một yếu tố kì ảo nhất trong vô số các chi tiết hiện thực chính xác. Nó bộc lộ sự đánh giá và những tình cảm chủ quan của nhà văn bên sự khách quan lạnh lùng của việc miêu tả hiện thực. Tất cả đã góp phần tạo dựng nên bức tranh xã hội và tình người rất toàn vẹn, tinh vi và sâu sắc của Banzắc, “bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực”.
Về tác phẩm, chính Banzắc đã phát biểu: “Lão Gôriô, cuốn sách tuyệt vời, nhưng buồn ghê gớm là buồn, để nói lên sự thật đầy đủ, phải vạch ra cái đạo đức thối tha của Pari”. Chọn vấn đề cha con để miêu tả, Banzắc đã trình bày bi kịch của lão Gôriô - một người cha - một bi kịch không chỉ có tính chất cá nhân mà mang ý nghĩa xã hội. Sự tan vỡ của tình cha con là hậu quả của một xã hội bị thế lực của đồng tiền thống trị. Vào giờ phút hấp hối, người cha bị ruồng bỏ, “vua Lia của thế kĩ XIX”, nhận thấy tai họa của sự đổ vỡ gia đình, cá nhân: “Tổ quốc sẽ bị diệt vong nếu như những người cha bị giày xéo dưới chân xã hội, thế giới dựa trên tình cha con, tất cả sẽ sụp đổ nếu những đứa con không còn yêu thương cha chúng nữa”.