29/01/2018, 21:16

Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) – Văn mẫu lớp 10

Nội dung bài viết1 Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) – Bài số 1 2 Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) – Bài số 2 3 Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) – Bài số 3 4 Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng (trích ...

Nội dung bài viết1 Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) – Bài số 1 2 Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) – Bài số 2 3 Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) – Bài số 3 4 Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) – Bài số 4 Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) – Bài số 1 Hội ngộ – rồi chia li đó là hai mặt của một quá trình. Nó là quy luật tự nhiên trong đời sống con người và cũng như là quy luật tình cảm riêng tư khó nói thành lời. Chẳng thế mà chia li đã trở thành thi tài, là nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà thơ, nhà văn đi vào khai thác sao. Từ trong câu ca dao quen thuộc: Vầng trăng ai xẻ làm đôi, Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng đến vầng trăng ai bẻ làm đôi; Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường (Truyện Kiều – Nguyễn Du) và ngay cả Cuộc chia li màu đỏ (Nguyễn Mĩ). Ta vẫn bắt gặp những giọt nước mắt long lanh, nóng bỏng, sáng ngời của kẻ ở – người đi. Nhưng có một cuộc chia li làm bạn đọc ấn tượng bởi Chí khí anh hùng, tràn đầy niềm tin lạc quan, tươi sáng chứ khôngnhuộm màu quan san. Đó là cuộc chia li của Từ Hải với Thuý Kiều để lên đường đi khởi nghĩa. Đoạn Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) thuộc phần gia biến và lưu lạc trên đoạn trường mười lăm năm. Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thuý Kiều được gặp Từ Hải, người anh hùng rồi đây sẽ cứu vớt nàng ra khỏi cuộc đời thanh lâu đau khổ. Người mà đại diện cho lí tưởng, đạo lí công bằng mà Nguyễn Du gửi gắm khi xây dựng trong tác phẩm. Người mà Nguyễn Du bộc lộ tư tưởng, tình cảm, khối mâu thuẫn khó giải quyết bằng lời của tác giả. Sau cuộc gặp gỡ đặc biệt, trong hoàn cảnh cũng rất đặc biệt, Thuý Kiều – Từ Hải đã tìm thấy sự hoà hợp về tâm hồn của nhau, ở họ vừa có sự thấy hiểu chân thành vừa có sự đồng cảm cho nhau. Hai khoảng trống về tâm hồn đã được lấp đầy, san sẻ cho nhau bằng tình yêu. Sự tương xứng ấy tạo nên một kết thúc có hậu của miền cổ tích khi: Trai anh hùng gái thuyên quyên Phi nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng. Trước khi đi vào tìm hiểu đoạn trích, ta hãy hiểu xem con người này có gì đặc biệt mà Nguyễn Du giành nhiều ưu ái khi xây dựng Từ Hải là người anh hùng lí tưởng. Một ngựa, một gươm – Từ Hải đã vung lên lưỡi gươm công lí cứu vớt con người khốn khổ, và chắp cánh cho ước mơ hoài bão của họ bay cao, bay xa mãi. Sự xuất hiện một nhân vật mới trên chặng đường số phận của Thuý Kiều lần này mang một ý nghĩa giá trị nghệ thuật đặc biệt. Hình tượng Từ Hải không chỉ phản ánh một quan niệm mới mẻ, tự do về quan hệ luyến ái nam nữ. Một đời được mấy anh hùng Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi! Chính là lời nói giản dị, chân thành, trân trọng Thuý Kiều của Từ Hải đã là lời tỏ tình tế nhị kín đáo mà phá vỡ khoảng cảnh vốn rất dề xuất hiện giữa nhân vật anh hùng với con người bình thường như Kiều. Có thể nói rằng Nguyễn Du thật có biệt tài xây dựng, khắc họa tính cách từng nhàn vật một cách đậm nét rõ ràng. Đặc biệt là nhân vật Từ Hải. Hơn bất cứ những hình tượng nào khác trong tác phẩm, Từ Hải phản ánh khát vọng tự do một khuynh hướng tự do không chỉ vượt khỏi lễ giáo, đạo đức chính thống mà còn là một người nổi loạn đối lập với trật tự chính trị phong kiến. Hình tượng Từ Hải – con người đã san phẳng bất bình, bênh vực người bị áp bức bằng nghĩa khí và tài năng cá nhân – tạo nên nội dung phong phú sâu sắc của Truyện Kiều. Từ Hải dường như đã bẻ gãy xiềng xích mà xã hội phong kiến trói buộc con người, chàng phủ định chính quyền nhà vua, và đối với chàng tự do cao hơn hết thảy: Chọc trời khuấy nước mặc dầu Dọc ngang nào biết trên đầu có ai! Với khí thế ngang tàng của sự tự do, không phải là cảnh: Áo xiêm ràng buộc lấy nhau Vào luồn ra cúi công hầu mà chi? Mà lại cái tư thế hiên ngang giữa đất trời, thoả chí anh hùng: Giang hồ quen thói vẫy vùng Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo. Hình ảnh cây cung và thanh kiếm đã tạo nên một nét mới trong tính cách của Từ Hải. Cũng như Kim Trọng, Từ Hải có một tâm hồn cao thượng và đượm chất thơ. Nhưng khác với các nhân vật trong tác phẩm, Từ Hải còn làm độc giả say mê bởi cái cốt cách của một kẻ ngang tàng, hào phóng. Nguyễn Du xây dựng Từ Hải là nhân vật lí tưởng có cốt cách phi thường nhưng đứng trước Kiều “Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng". Tuy nhiên chàng luôn đứng trên lập trường và lợi ích của cộng đồng, tình cảm và lí tưởng của chàng luôn thống nhất chứ không đồng nhất. Vì vậy mà: Nửa năm hương lửa đương nồng Trượng phu thoát đã động lòng bốn phương Trông vời trời bể mênh mang Thanh gươm yến ngựa lên dường thẳng rong. Sống trong hạnh phúc yêu thương, khi hơi ấm tình cảm vợ chồng ở độ mặn nồng, đằm thắm, Từ Hải vẫn không quên sự nghiệp lớn, chí làm trai mà theo như Nguyễn Công Trứ: Chí làm trai nam bắc tây đông Cho phí sức vẫy vùng trong bốn bể. Điểm này ở Từ Hải đã cho thấy sự phù hợp trong tính cách của chàng đó là đội trời đạp đất ở đời. Tư thế ra đi của Từ Hải dứt khoát khồng có chút gì lưu luyến – bịn rịn như Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều, không có lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai. Mà ở đoạn trích Chí khí anh hùng (Truyện Kiều – Nguyễn Du), người Trượng phu mang trong mình tầm vóc lớn lao của thời đại giao cho, đối lập với một không gian bao la, trông vời trời bể mênh mông là tầm vóc của người anh hùng: Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong. Chỉ mới bốn câu thơ thôi Nguyễn Du đã khắc hoạ một nhân vật, người anh hùng bằng xương bằng thịt. Bởi miêu tả là người anh hùng cho nên ngôn ngữ của Nguyễn Du là sự kính phục, trân trọng. Cách miêu tả cũng khác, không gian, thời gian được mở rộng để phù hợp với khí phách của nhân vật chăng? Người anh hùng ra đi không muốn vướng bận nữ nhi, không chút mềm yếu trước lời nói của thê tử: Nàng rằng: phận gái chữ tòng Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi. Thuý Kiều là người sâu sắc đến mấy cũng không thoát khỏi chuyện phu – thê quyến luyến. Nàng chỉ muốn theo Từ Hải đi để làm trọn bổn phận làm vợ của mình, mà không nghĩ đến việc lớn của chàng. Vì thế Từ Hải đã trách khéo nàng tâm phúc tương tri tức là hai người đã hiểu rõ lòng dạ của nhau một cách sâu sắc như thế, cần gì phải quan tâm đến chuyện nghĩa theo chồng như đạo Nho bắt làm. Sau đó chàng động viên Thuý Kiều ở nhà yên tâm đợi tin vui: Bao giờ mười vạn tinh binh Tiếng chuông dậy đất bóng tỉnh rợp đường. Làm cho rõ mặt phi thường Bây giờ ta sẽ rước nàng nghi gia. Còn bây giờ giữa trời đất bao la bốn bể không nhà, nàng mà đi theo chi làm bận tâm thêm, huống chi chưa biết rõ là đi đâu. Vì vậy nàng hãy dằn lòng chờ đợi chỉ một hai năm vội gì. Thế rồi chàng: Quyết lời dứt áo ra đi Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi. Hình ảnh con chim bằng được lấy điển tích từ truyện ngụ ngôn kể rằng chim bằng là một giống chim rất lớn, đập cách làm động nước trong ba ngàn dặm, thường tượng trưng cho những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, khao khát làm nên sự nghiệp lớn. Nguyễn Du đã ví Từ Hải như là con chim bằng đã đến lúc tung cánh bay lên cùng gió mây. Cuộc sống của một con người luôn khao khát không trung, tự dothỏa chí vẫy vùng, không bao giờ chịu sống trong cảnh tù túng, gò bó trong không gian nhỏ bé thường ngày của người bình thường. Khi miêu tả người anh hùng Từ Hải, Nguyễn Du đi vào miêu tả hành động và cử chỉ ngôn ngữ mang ý nghĩa mạnh mẽ, dứt khoát như: thoắt đã, thẳng giong, sao chưa thoát khỏi, dậy đất, phi thường, vội gì, quyết lời dứtáo ra đi,… Ngoài ra thêm các từ chữ Hán để bộc lộ tư tưởng tình cảm của tác giả, rồi dùng điển cố, điển tích…và cả xây dựng thời gian, không gian mở: nửa năm, bốn phương, trời bể mênh mang, … Tóm lại, chỉ một đoạn thơ ngắn, hình tượng nhân vật Từ Hải dường như xuất hiện từ một giấc mơ, từ một giấc mơ hùng vĩ về chính phía mà hàng triệu người khốn khổ áp bức hằng ôm ấp. Vì vậy mà khi xây dựng, Nguyễn Du đã có những sáng tạo các phương thức nghệ thuật riêng, để biểu đạt khát vọng của mình và của thời đại Nguyễn Du sống – khát vọng về sự tự do, công bằng lẽ phải. Từ một cuộc chia li mà nói lên được toàn bộ chí khí anh hùng của Từ Hải. Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) – Bài số 2 Vương Thúy Kiều là một người con gái “tài sắc vẹn toàn”, một bậc giai nhân vẹn toàn khó có thể tìm thấy trong dân gian. Tuy nhiên, càng tài sắc bao nhiêu thì cuộc đời của nàng càng trắc trở, bất hạnh bấy nhiêu. Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy tiền cứu cha, cứu gia đình, cuộc đời của Thúy Kiều đã bước sang một trang khác, nàng không còn là một tiểu thư đài các, sống cuộc sống “Êm đềm chướng rủ màn che” nữa, nàng đã trở thành một người con gái phong trần, bán niềm vui cho thiên hạ. Cuộc đời nàng những tưởng mãi chìm trong đau khổ, bị thương nhưng Từ Hải xuất hiện, người đàn ông “đầu đội trời, chân đạp đất” ấy đã cứu vớt cuộc đời chìm nổi của nàng Kiều, cho Kiều một danh phận, một cuộc sống như bao nhiêu người phụ nữ bình thường khác. Trong trích đoạn “Chí khí anh hùng” nhà thơ Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét hình ảnh của người anh hùng Từ Hải. Đến với Thúy Kiều nhưng Từ Hải chưa phút giây nào lãng quên lí tưởng, sự nghiệp lớn của mình. Vì vậy, sống chung với Thúy Kiều sáu tháng, dù vô cùng hạnh phúc, vui vẻ nhưng Từ Hải cũng đã nói lời từ biệt nàng Kiều để lên đường thực hiện nghiệp lớn: “Nửa năm hương lửa đương nồng Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương Trông vời trời bể mênh mang Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong” “Nửa năm” là khoảng thời gian Từ Hải hạnh phúc bên nàng Kiều. “Hương lửa đương nồng” chỉ khoảng thời gian êm đềm, hạnh phúc ấy, ngọn lửa của tình yêu vẫn nóng bỏng, rạo rực trong trái tim. Nhưng, người trượng phu ấy đã “động lòng bốn phương”, khát khao, ước mơ thực hiện lí tưởng lại trỗi dậy mạnh mẽ trong chính người trượng phu ấy, “trời bể mênh mang” tức sự nghiệp mà chàng đang ấp ủ vẫn là một cái đích lớn cần thực hiện, đang “vẫy chào” với chàng. “Thanh gươm”, “yên ngựa” là những hành trang theo Từ Hải lên đường, sát cánh bên chàng khi chiến đấu thực hiện giấc mộng lớn. Vì vậy, câu thơ “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” thể hiện được phong thái của một bậc anh hùng “đầu đội trời chân đạp đất”, khí chất khẳng khái cần phải có của một người đứng đầu. “Quyết lời dứt áo ra đi Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi Sinh vi nam tử yếu hy kì Khẳng hứa càn khôn tự chuyển đi” Phong thái của người anh hùng Từ Hải thể hiện ngay trong hành động dứt khoát, khẳng khái “dứt áo ra đi”. Nghiệp lớn của người anh hùng đã đến kì “dặm khơi”, nên Từ Hải vô cùng dứt khoát ra đi, bởi sự nghiệp này phải thực hiện, thân là người nam nhi đầu đội trời, chân đạp đất càng không thể không thực hiện: “Sinh vi nam tử yếu hy kì”. Đồng thời, câu thơ cũng thể hiện được sự tự tin vào sức mạnh của mình: “Khẳng hứa càn khôn tự chuyển đi”. Từ Hải tự tin vào sức mạnh và tài năng của mình, lời khẳng định đầy tự tin rằng lần lên đường này nhất quyết sẽ thắng lợi, sẽ khiến cho “càn khôn tự chuyển đi”. Lí tưởng này của chàng thật lớn lao, vĩ đại, lời khẳng định của chàng mạnh mẽ đến mức người đọc tin tưởng rằng nhất định nó sẽ trở thành sự thực. Trước quyết định ra đi của Từ Hải, Thúy Kiều đã bày tỏ nguyện vọng muốn được đi theo, vừa là tiện bề chăm sóc, làm tròn trách nhiệm của một người thê tử với phu quân, vừa là không muốn chia li, cắt biệt với Từ Hải: “Nàng rằng: Phận gái chữ tòng Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi Từ rằng: Tâm phúc tòng tri Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình” Thúy Kiều nói với Từ Hải bằng giọng điệu hết sức tha thiết, thể hiện mong muốn chân thành với Từ Hải, đó là theo Từ Hải đến nơi chân trời góc bể “Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”, với nàng Kiều, phận làm vợ phải đề cao chữ “tòng”, tức với một người con gái đã xuất giá là phải theo chồng “xuất giá tòng phu”. Có lẽ, Từ Hải là người chồng đúng nghĩa nhất của Thúy Kiều, cũng là người thật lòng yêu thương, bảo vệ nàng như một người trượng phu thực thụ. Tuy nhiên, trước mong muốn của Thúy Kiều, Từ Hải đã không thể đồng ý, chàng cho rằng Thúy Kiều chưa thể thoát ra khỏi cái yếu đuối, ủy mị của “nữ nhi thường tình”, rằng “tâm phúc tòng tri”, vì vậy không nhất thiết phải theo chàng ra tận nơi chiến trường đầy hiểm nguy. Tấm lòng của Thúy Kiều thì Từ Hải nhận, nhưng đành phải nói lời từ chối với mong muốn đi theo của nàng. Có thể nói tình yêu của Từ Hải dành cho Thúy Kiều là đúng nghĩa, nhưng chàng cũng biết nơi chiến trường hiểm nguy, gian khổ như thế nào, đối với thân gái như Kiều khó có thể chịu được. Vì vậy, càng yêu Kiều bao nhiêu thì Từ Hải càng quyết tâm bấy nhiêu, quyết tâm ra đi, quyết tâm dành chiến thắng để mang lại cho Kiều cuộc sống tốt đẹp nhất. Ngay sau đó, Từ Hải cũng an ủi Thúy Kiều bằng những lời lẽ đầy chân thành, không kém phần mạnh mẽ: “Bao giờ mười vạn tinh binh Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường Làm cho rõ mặt phi thường Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia” Lời thơ cũng là lời hứa chắc chắn của Từ hải đối với Thúy Kiều, khi toàn quân đã giành chiến thắng “mười vạn tinh binh”, “tiếng chiêng dậy đất”, “bóng binh rợp đường”. Viễn cảnh chiến thắng huy hoàng được Từ Hải vẽ ra đầy tự tin, chắc chắn. Trong không khí “phi thường” ấy là lúc Từ Hải sẽ cho Thúy Kiều một danh phận chính thức “rước nàng nghi gia”. Tấm lòng của người trượng phu ấy dành cho người phụ nữ của mình thật khiến độc giả cảm động. “Bằng nay bốn bể không nhà Theo càng thêm bận biết là đi đâu” Trở về thực tại, khi hoàng quang chiến thắng còn ở trong tương lai, hiện thực trôi nổi, bốn bể là nhà, đối với bậc trượng phu như Từ hải có thể chịu được nhưng đối với một cô gái yếu đuối như Kiều, liệu có chịu nổi không? Mang theo Thúy Kiều, Từ Hải sẽ thêm gánh nặng “theo càng thêm bận” bởi việc quân, việc nhà. Tuy nhiên, những lời nói của chàng dứt khoát như vậy nhưng thực chất là không muốn Thúy Kiều phải chịu khổ cùng mình, bởi cuộc sống sẽ vô cùng gian khổ, nguy hiểm lúc nào cũng cận kề mà không phải lúc nào chàng cũng có thể ở bên bảo vệ. Người quân tử mang nghiệp lớn bên mình không thể vướng bận thêm việc vợ con, bởi như vậy thì không thể toàn tâm, toàn ý chăm lo cho cái nghiệp lớn ấy được nữa. Trích đoạn “Chí khí anh hùng” là trích đoạn đại thi hào Nguyễn Du dựng lên hình ảnh thật đẹp về người anh hùng Từ Hải, chàng không chỉ là một bậc trượng phu “đầu đội trời chân đạp đất”, có khát vọng, lí tưởng đẹp, mưu lược nghiệp lớn. Tự tin vào tài năng và sức mạnh của bản thân mà còn là một người chồng hết mực yêu thương, che chở, mong những điều tốt đẹp nhất với vợ của mình. Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) – Bài số 3 Có một nhà thơ mà người Việt Nam không ai là không biết đến. Có một truyện thơ mà hơn 200 năm qua không mấy người Việt Nam không thuộc vài câu hay vài đoạn. Người ấy, thơ ấy đã từng được Tố Hữu ngợi ca: “Tiếng thơ ai động đất trời Nghe như non nước vọng lời ngàn thu” Không ai khác đó chính là Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều. Mỗi một đoạn, mỗi câu thơ đều là “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” mà thi gia dầy công chắp bút. Đằng sau số phận cuộc đời nhân vật đều được gửi gắm biết bao giá trị nhân đạo sâu sắc. Đó là niềm trân trọng nâng niu ước mơ khát vọng con người. Đó là tiếng nói lên án tố cáo những thế lực xấu xa đứng đằng đằng sau. Và hơn thế nữa nó phản ảnh chân thực giấc mơ tự do công lí mà đoạn trích – bài thơ “Chí khí anh hùng” chính là tiêu biểu nhất cho điều này. Sau tháng ngày ân ái bên Thúc Sinh, Kiều lại một lần nữa sa thân vào chốn lầu xanh nhơ nhớp, một lần nữa quay trở lại với Tú Bà để sống thân phận của người kĩ nữ hèn mọn. Cứ tưởng rằng, cuộc đời nàng đã đặt một dấu chấm hết trong tối tăm và đầy rẫy những bất hạnh. Thế nhưng, giữa cơn phong ba, Từ Hải bỗng dưng “vụt đến như một ngôi sao lạ chiếu sáng một đoạn đời nàng” (Hoài Thanh). Chàng chuộc Kiều ra, trả lại cho Kiều sự tự do xứng đáng. Hai người họ đến bên nhau với tấm lòng của những bậc tri kỉ giữa “trai anh hùng’’ và “gái thuyền quyên”. Nhưng hạnh phúc chưa được bao lâu, thì cái “thói vẫy vùng” của bậc giang hồ lại được dịp sục sôi,cái khát khao dựng nên nghiệp lớn bỗng thúc dục mạnh mẽ bước chân người anh hùng. Đoạn trích chính là miêu tả cảnh Từ Hải từ biệt Thúy Kiều để ra đi. Khác với Thanh Tâm Tài Nhân trong “Kim Vân Kiều truyện” chỉ thuật lại trong đôi ba dòng ngắn ngủi “Từ Hải sắm một căn nhà ở với Kiều được năm tháng rồi từ biệt ra đi” thì Nguyễn Du với bút xuất chúng của mình đã dựng nên một cảnh li biệt giữa đôi trai gái để hoàn thiện giấc mộng anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất” lớn nhất của cuộc đời mình. Bốn câu thơ đầu khắc họa thật đậm, thật rõ nét hình ảnh của Từ Hải trước lúc lên đường: “Nửa năm hương lửa đương nồng Trựơng phu thoắt đã động lòng bốn phương Trông vời trời bể mênh mang Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”. Nguyễn Du đã làm khó bậc anh hùng khi đặt chàng trong hai khoảng không gian đối lập nhau. Một bên là không gian khuê phòng với “hương lửa đương nồng” với tình cảm lứa đôi đầy những cám dỗ, có thể níu kéo bất kì một người đàn ông nào. Trái lại, một bên là không gian vũ trụ bao la có sức vẫy gọi mãnh liệt. Đường đường là đấng “trượng phu” Từ không một phút níu kéo giằng xé hay do dự mà khẳng khái đưa ra quyết định của chính mình. Chàng vốn sinh ra không phải là con người của những đam mê thông thường mà là người của những sự nghiệp vĩ đại- sự nghiệp của bậc anh hùng. Hiểu thấu được khát khao ấy, Nguyễn Du đã trân trọng gọi nhân vật của mình bằng hai tiếng “trượng phu” – người đàn ông có trí lớn .Rõ ràng, hai chữ này chỉ xuất hiện duy nhất một lần trong truyện Kiều và dành riêng cho Từ. Thứ tình cảm vợ chồng giản đơn đâu thể nào níu giữ bước chân người anh hùng thêm nữa. Tiếng gọi của lí trí thúc dục chàng đi theo đuổi và thực hiện hoài bão của cuộc đời. Cái ánh mắt trông vào “trời bể mênh mang” là ánh nhìn hướng đến một khoảng không gian xa hơn rộng hơn nơi mà bậc hào kiệt thỏa trí vẫy vùng với những đam mê, lí tưởng. Hình ảnh cuối cùng “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” không chỉ tái hiện hình ảnh con người mạnh mẽ, hào hùng đặt trên nền kì vĩ của không gian mà còn mở ra tâm thế nhân vật không hề có một chút nào là do dự luôn hành động thật dứt khoát, quả quyết. Đến đây, ta chợt bắt gặp những đểm tương đồng trong thơ Nguyễn Du với các nhà thơ cùng thời. Là hình ảnh chinh phu oai hùng trước buổi ra trận: “Chí làm trai dặm nghìn da ngựa Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao” Hay như: “Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt Xếp bút nghiêng theo việc binh đao Dã nhà đeo bức chiến hào Thét roi cầm vị ào ào gió thu” (Chinh phu ngâm_ Đoàn Thị Điểm) Cả Nguyễn Du và Đoàn Thị Điểm đều mượn hình ảnh vốn của thiên nhiên vũ trụ để nâng cao tầm vóc, kích thước nhân vật anh hùng của mình. Thế nhưng, nếu “chí làm trai” trong những câu thơ của “chinh phụ ngâm” là lập nên sự nghiệp là lưu danh, lập công với núi sông thì với “chí anh hùng” lập nên sự nghiệp lại là để yên bề gia thất. Có thể nói đúng như những lời nhận định của Hoài Thanh “Từ Hải hiện ra trong bốn câu đầu không phải người của một nhà, một họ, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương…” chỉ bằng ngòi bút xuất thần của thi nhân cùng với cái nhìn đầy trân trọng ngưỡng mộ dành cho nhân vật. Lời thơ tuy ít mà ý thơ thì trải ra đến vô cùng. Lẽ thường, cuộc chia tay nào cũng đầy nước mắt, cũng đọng những dùng dằng chẳng nỡ của kẻ ở với người đi. Với Từ và Kiều cũng không phải là ngoại lệ. Nàng không muốn một thân một mình, giường đơn gối chiếc trong căn nhà lạnh lẽo, nàng một mực muốn được sẻ chia, được gánh vác sự nghiệp với Từ Hải. Lời lẽ nghe sao mà tha thiêt thế: Nàng rằng: “ Phận gái chữ tòng Chàng đi thiếp cùng một lòng xin đi” Kiều một lòng xin đi theo âu cũng là hợp tình hợp lí với đạo Nho truyền thống. Nho giáo viết đã phận nữ nhi “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phụ tử tòng tử”. Thế nhưng, trái với những mong mỏi của nàng, Từ ngay lập tức đáp lại: Từ rằng: “Tam phúc tương tri Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình” Mới nghe qua thì cứ nghĩ là một lời trách cứ nhưng đằng sau đó lại là lời động viên người tri kỉ của mình biết vượt lên những tình cảm thông thường để sánh cùng trí lớn của người anh hùng. Vì vậy, sau này khi nói về nỗi nhớ nhung da diết của Thúy Kiều dành cho Từ Hải, Nguyễn Du viết: “Cánh hồng bay bổng tuyệt vời Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm” Nàng hướng con mắt về phương trời xa không chỉ để tìm kiếm một dáng hình thân thuộc khi xưa, đó còn là sự ngóng đợi vào sự nghiệp lớn lao mà Từ Hải đã dốc lòng dựng xây: “Bao giờ mười vạn tinh binh Tiếng chiêng dậy đất, bóng cây rợp đường Làm cho rõ mặt phi thường Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia” Ngày chàng hoàn thành xong nghiệp lớn cũng sẽ chính là ngày chàng trở về đón nàng trong tư cách là một người chủ tướng chỉ huy mười vạn tinh binh với chiêng chống dậy đất, cờ quạt dậy đường. Những lời thốt lên từ người anh hùng không hề mang tính chất khoa trương mà đầy quả quyết chắc chắn thể hiện sự tự tin tuyệt đối của nhân vật vào cơ đồ mà mình tạo dựng. Niềm tin mãnh liệt của Từ truyền sang cho Kiều và lan tỏa ra khắp tất thẩy bạn đọc. Đoạn trích kết lại với hai câu thơ gây ấn tượng sâu đậm bở hình ảnh ước lệ: “Quyết lời dứt áo ra đi Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi” Trong thơ ca trung đại cổ điển ,hành động “dứt áo ra đi” không phải là quá xa lạ, nó mang tính chất lưu luyến bịn rịn chẳng nỡ rời xa. Thế nhưng, đặt trong đoạn trích và đặt trong hình tượng Từ Hải thì đó lại thể hiện sự mạnh mẽ, quyết đoán của bậc nam nhi. Phải chăng vì thế mà Nguyễn Du đã không chút do dự nâng nhân vật của mình lên, ví hình ảnh chàng lúc lên đường với hình ảnh chim bằng cất cánh bay vào muôn trùng dặm khơi? Hình ảnh đó phần nào thể hiện cái nhìn lãng mạn và khát vọng thoát khỏi thời đại mình – một tư tưởng tiến bộ vượt bậc so với những người đương thời. Đoạn trích “Chí khí anh hùng” xây dựng hình tượng Từ Hải bằng bút pháp ước lệ hóa kết hợp với lối ngôn ngữ giàu sức gợi đã khẳng định rõ phẩm chất cốt lõi của người anh hùng không để tình cảm riêng rằng buộc chí lớn luôn luôn hành động đề hướng tới sự nghiệp cao cả, vĩ đại. Nhờ đó mà nhân vật có một sức sống đậm sâu trong lòng bạn đọc muôn đời. Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) – Bài số 4 Đoạn trích Chí khí anh hùng từ câu 2213 đến câu 2230 trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường. Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thúy Kiều luôn sống trong tâm trạng chán chường, tuyệt vọng: Biết thân chạy chẳng khỏi trời, Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh. Thế rồi Từ Hải đột nhiên xuất hiện. Từ Hải tìm đến với Thúy Kiều như tìm đến với tri âm, tri kĩ. Trong vũng lầy nhơ nhớp của chốn lầu xanh, Từ Hải đã tinh tường nhận ra phẩm chất cao quý của Thúy Kiều và với con mắt tinh đời, ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên Kiều đã thầm khẳng định Từ Hải là người duy nhất có thể tát cạn bể oan cho mình. Nàng khiêm nhường bày tỏ: Rộng thương cỏ nội hoa hèn, Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau. Hai người, một là gái giang hồ, một đang làm “giặc”, đều thuộc hạng người bị xã hội phong kiến khinh rẻ nhất, đã đến với nhau tâm đầu ý hợp trong một mối tình tri kỉ. Từ Hải đánh giá Kiều rất cao, còn Kiều nhận ra Từ là đấng anh hùng. Nhưng tình yêu không thể giữ chân Từ Hải được lâu. Đã đến lúc Từ Hải ra đi để tiếp tục tạo lập sự nghiệp. Đoạn trích này cho thấy một Từ Hải đầy chí khí anh hùng, mà cũng đượm chút cô đơn, trống trải giữa đời. Trước sau đối với Từ Hải, Nguyễn Du vẫn dành cho chàng thái độ trân trọng và kính phục, ở chàng, nhất cử nhất động đều thể hiện rõ chí khí, cốt cách anh hùng. Trên con đường tạo dựng nghiệp lớn, cuộc hôn nhân bất ngờ giữa chàng với Thúy Kiều chỉ là phút chốc nghỉ ngơi, chứ không phải là điểm âm, tri kỉ và cuộc hôn nhân của họ đang hạnh phúc hơn bao giờ hết. Ấy vậy mà, chỉ mới sáu tháng vui hưởng hạnh phúc bên Thúy Kiều, Từ Hải đã lại động lòng bốn phương, dứt khoát lên đường, tiếp tục sự nghiệp lớn lao đang còn dang dở: Nửa năm hương lửa đương nồng, Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương. Trông vời trời bể mênh mang, Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong. Từ Hải được tác giả miêu tả là con người đa tình, nhưng trước hết Từ Hải là một tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ. Chí là mục đích cao cả hướng tới, khí là nghị lực để đạt tới mục đích, ở con người này, khát khao được vẫy vùng giữa trời cao đất rộng như đang trở thành một khát vọng bản năng tự nhiên, không có gì có thể kiềm chế nổi. Trước lúc gặp gỡ và kết duyên với Thúy Kiều, Từ Hải đã là một anh hùng hảo hán: Dọc ngang nào biết trên đầu có ai, đã từng: Nghênh ngang một cõi biên thùy. Cái chí nguyện lập nên công danh, sự nghiệp ở chàng là rất lớn. Vì thế không có gì cản được bước chân chàng. Dù Nguyễn Du không nói cụ thể là Từ Hải ra đi làm gì nhưng nếu theo dõi mạch truyện và những câu chàng giải thích để Thúy Kiều an lòng thì người đọc sẽ hiểu cả một sự nghiệp vinh quang đang chờ chàng ở phía trước. Từ Hải không phải là con người của những đam mê thông thường mà là con người của sự nghiệp anh hùng. Đang sống trong cảnh nồng nàn hương lửa. Từ chợt động lòng bốn phương, thế là toàn bộ tâm trí hướng về trời biển mênh mang, và lập tức một minh với thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong. Chữ trượng phu trong Truyện Kiểu chỉ xuất hiện một lần dành riêng đã nói về Từ Hải. Điều đó cho thấy Nguyễn Du đã dùng từ Trượng phu với nghĩa Từ Hải là người đàn ông có chí khí lớn. Chữ thoắt thể hiện quyết định nhanh chóng, dứt khoát cùa chàng. Bôn chữ động lòng bốn phương nói lên được cái ý Từ Hải “không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương”. (Hoài Thanh). Động lòng bốn phương là thấy trong lòng náo nức cái chí tung hoành khắp bốn phương trời. Con người phi thường như chàng chẳng thể giam hãm mình trong một không gian chật hẹp. Chàng nghĩ rất nhanh, quyết định lại càng nhanh. Một thanh gươm, một con tuấn mã, chàng hối hả lên đường. Ấy là bởi khát vọng tự do luôn sôi sục trong huyết quản của người anh hùng. Hoài Thanh bình luận: Qua câu thơ, hình ảnh của con người “thanh gươm yên ngựa” tưởng như che đầy cả trời đất”. Trong cảnh tiễn biệt, tác giả tả hình ảnh Từ Hải: thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong trước rồi mới đế cho Từ Hải và Kiều nói những lời tiễn biệt. Có người cho rằng nếu như vậy thì Thúy Kiều còn nói sao được nữa? Có lẽ tác giả muốn dựng cảnh tiễn biệt này khác hẳn cảnh tiễn biệt giữa Thúy Kiều – Kim Trọng, Thúy Kiều – Thúc Sinh. Từ Hải đã ở tư thế sẵn sàng lên đường. Chàng ngồi trên yên ngựa mà nói những lời tiễn biệt với Thúy Kiều. Sự thật có phải vậy không? Không chắc, nhưng cần phải miêu tả như thế mới biểu hiện được sự quyết đoán và cốt cách phi thường của Từ Hải. Thúy Kiều biết rõ Từ Hải ra đi sẽ lâm vào tình cảnh bốn bể không nhà, nhưng vẫn khẩn thiết xin được cùng đi, nàng rằng: Phận gái chữ tòng, chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi. Ngắn gọn thế thôi, nhưng quyết tâm thì rất cao. Chữ tòng ở đây không chỉ có nghĩa như trong sách vở thánh hiền của dạo Nho: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu…, mà còn ngụ ý tiếp sức, chia sẻ nhiệm vụ, muốn cùng được gánh vác với chồng. Lời Từ Hải nói trong lúc tiễn biệt càng thể hiện rõ chí khí anh hùng của nhân vật này: Từ rằng: “Tâm phúc tương tri, Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình? Bao giờ mười vạn tinh binh, Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp dường. Làm cho rõ mặt phi thường, Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia. Bằng nay bốn bể không nhà, Theo càng thêm bận biết là đi đâu? Đành lòng chờ đó ít lâu, Chầy chăng là một năm sau vội gì!” Đã là tâm phúc tương tri có nghĩa là hai ta đã hiểu biết lòng dạ nhau sâu sắc, vậy mà sao, dường như nàng chưa thấu tâm can ta, nên chưa thoát khỏi thói nữ nhi thường tình. Lẽ ra, nàng phải tỏ ra cứng cỏi để xứng là phu nhân của một bậc trượng phu. Lí tưởng anh hùng của Từ Hải bộc lộ qua ngôn ngữ mang đậm khẩu khi anh hùng. Khi nói lời chia tay với Thúy Kiều chàng không quyến luyến, bịn rịn vì tình chồng vợ mặn nồng mà quên đi mục đích cao cả. Nếu thực sự quyếu luyến, Từ Hải sẽ chấp nhận cho Thúy Kiều đi theo. Từ Hải là con người có chí khí, khát khao sự nghiệp phi thường nên không thể đắm mình trong chốn buồng the. Đang ở trong cảnh hạnh phúc ngọt ngào, tiếng gọi của sự nghiệp thôi thúc từ bên trong. Từ Hải quyết dứt áo ra đi. Giờ đây, sự nghiệp đối với chàng là trên hết. Đối với Từ Hải, nó chẳng những là ý nghĩa của cuộc sống mà còn là điều kiện để thực hiện những ước ao mà người tri kỉ đã gửi gắm, trông cậy ở chàng. Do vậv mà không có những lời than vãn buồn bã lúc chia tay. Thêm nữa, trong lời trách Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình còn bao hàm ý khuyên Thúy Kiều hãy vượt lên tình cảm thông thường để xứng đáng là vợ của một anh hùng. Cho nên sau này trong nỗi nhớ của Kiều: cánh hồng bay bổng tuyệt vời. Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm, không chỉ có sự mong chờ, mà còn có cả hi vọng vào thành công và vinh quang trong sự nghiệp của Từ Hải. Từ Hải là con người rất mực tự tin. Trước đây, chàng đã ngang nhiên xem mình là anh hùng giữa chốn trần ai. Giờ thì chàng tin rằng tất cả sự nghiệp như đã nắm chắc trong tay. Dù xuất phát chỉ với thanh gươm yên ngựa, nhưng Từ Hải đã tin rằng mình sẽ có trong tay mười vạn tinh binh, sẽ trở về trong hào quang chiến thắng Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường, để rõ mặt phi thường với Thúy Kiều, để đem lại vẻ vang cho người phụ nữ mà chàng hết lòng yêu mến và trân trọng. Từ Hải đã khẳng định muộn thì cũng không quá một năm, nhất định sẽ trở về với cả một cơ đồ to lớn. Không chút vấn vương, bi lụy, không dùng dằng, quyến luyến như trong các cuộc chia tay bình thường khác, Từ Hải có cách chia tay mang đậm dấu ấn anh hùng của riêng mình. Lời chia tay mà cũng là lời hứa chắc như đinh đóng cột; là niềm tin sắt đá vào chiến thắng trong một tương lai rất gần. Hai câu thơ cuối đoạn đã khẳng định thêm quyết tâm ấy: Quyết lời dứt áo ra đi, Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi. Nguyễn Du mượn hình ảnh phim bằng (đại bàng) trong văn chương cổ điển, thường tượng trưng cho khát vọng của những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, muốn làm nên sự nghiệp lớn lao để chỉ Từ Hải. Cuộc ra đi đột ngột, không báo trước, thái độ dứt khoát lúc chia tay, niềm tin vào thắng lợi… tất cả đều bộc lộ chí khí anh hùng của Từ Hải. Đã đến lúc chim bằng tung cánh bay lên cùng gió mây chín ngàn dặm trên cao. Hình ảnh: gió mây bằng đã đến kì dặm khai là mượn ý của Trang Tử tả chim bằng khi cất cánh lên thì như đám mây ngang trời và mỗi bay thì chín vạn dậm mới nghỉ, đối lập với những con chim nhỏ chỉ nhảy nhót trên cành cây đã diễn tả những giây phút ngáy ngất say men chiến thắng cùa con người phi thường lúc rời khỏi nơi tiễn biệt. Hình tượng người anh hùng Từ Hải là một sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Du về phương diện cảm hứng và nghệ thuật miêu tả. Qua đó thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ trong việc diễn tả chí khí anh hùng cùng khát vọng tự do của nhân vật Từ Hải. Từ Hải là hình ảnh thể hiện mạnh mẽ cái ước mơ công lí vẫn âm ỉ trong cảnh đời tù túng của xã hội cũ. Từ Hải ra đi để vẫy vùng cho phỉ sức, phỉ chí, nhưng nếu hiểu kỹ càng còn thêm một lí do nữa là vì bất bình trước những oan khổ của con người bị chà đạp như Thúy Kiều thì không hẳn là không có căn cứ. Điều chắc chắn là cái khao khát của Từ Hải muốn được tung hoành ! rong bốn bể để thực hiện ước mơ công lí chứ không bao giờ nhằm mục đích thiết lập một ngai vàng quyền lực tầm thường. Nguyễn Du đã thành công trong việc chọn lựa từ ngữ, hình ảnh và biện pháp miêu tả có khuynh hướng lí tưởng hóa để biến Từ Hải thành một hình tượng phi thường với những nét tính cách đẹp đẽ, sinh động. Đoạn trích tuy ngắn nhưng ý nghĩa lại rất lớn. Nó góp phần tô đậm tính cách của người anh hùng Từ Hải – nhân vật lí tưởng, mẫu người đẹp nhất trong kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Nguyễn Tuyến tổng hợp Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) – Văn mẫu lớp 10Đánh giá bài viết Có thể bạn quan tâm?Nghị luận xã hội về câu nói: Tình thương là hạnh phúc của con người – Văn mẫu lớp 10Bình luận câu ca dao: Ai ơi giữ chí cho bền, Dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai – Văn mẫu lớp 10Nghị luận về câu ca dao: Cầm vàng mà lội qua sông Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng – Văn mẫu lớp 10Nghị luận xã hội về câu ca dao: Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau – Văn mẫu lớp 10Nghị luận xã hội về tính khiêm tốn – Văn mẫu lớp 10Nghị luận về câu tục ngữ: Cái khó bó cái khôn – Văn mẫu lớp 10Phân tích truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy – Văn mẫu lớp 10Nghị luận về câu nói của Nguyễn Bá Học: Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông – Văn mẫu lớp 10

Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) – Bài số 1

Hội ngộ – rồi chia li đó là hai mặt của một quá trình. Nó là quy luật tự nhiên trong đời sống con người và cũng như là quy luật tình cảm riêng tư khó nói thành lời. Chẳng thế mà chia li đã trở thành thi tài, là nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà thơ, nhà văn đi vào khai thác sao. Từ trong câu ca dao quen thuộc: Vầng trăng ai xẻ làm đôi, Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng đến vầng trăng ai bẻ làm đôi; Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường (Truyện Kiều – Nguyễn Du) và ngay cả Cuộc chia li màu đỏ (Nguyễn Mĩ). Ta vẫn bắt gặp những giọt nước mắt long lanh, nóng bỏng, sáng ngời của kẻ ở – người đi. Nhưng có một cuộc chia li làm bạn đọc ấn tượng bởi Chí khí anh hùng, tràn đầy niềm tin lạc quan, tươi sáng chứ khôngnhuộm màu quan san. Đó là cuộc chia li của Từ Hải với Thuý Kiều để lên đường đi khởi nghĩa.

Đoạn Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) thuộc phần gia biến và lưu lạc trên đoạn trường mười lăm năm. Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thuý Kiều được gặp Từ Hải, người anh hùng rồi đây sẽ cứu vớt nàng ra khỏi cuộc đời thanh lâu đau khổ. Người mà đại diện cho lí tưởng, đạo lí công bằng mà Nguyễn Du gửi gắm khi xây dựng trong tác phẩm. Người mà Nguyễn Du bộc lộ tư tưởng, tình cảm, khối mâu thuẫn khó giải quyết bằng lời của tác giả.

Sau cuộc gặp gỡ đặc biệt, trong hoàn cảnh cũng rất đặc biệt, Thuý Kiều – Từ Hải đã tìm thấy sự hoà hợp về tâm hồn của nhau, ở họ vừa có sự thấy hiểu chân thành vừa có sự đồng cảm cho nhau. Hai khoảng trống về tâm hồn đã được lấp đầy, san sẻ cho nhau bằng tình yêu. Sự tương xứng ấy tạo nên một kết thúc có hậu của miền cổ tích khi:

Trai anh hùng gái thuyên quyên

Phi nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng.

Trước khi đi vào tìm hiểu đoạn trích, ta hãy hiểu xem con người này có gì đặc biệt mà Nguyễn Du giành nhiều ưu ái khi xây dựng Từ Hải là người anh hùng lí tưởng. Một ngựa, một gươm – Từ Hải đã vung lên lưỡi gươm công lí cứu vớt con người khốn khổ, và chắp cánh cho ước mơ hoài bão của họ bay cao, bay xa mãi.

Sự xuất hiện một nhân vật mới trên chặng đường số phận của Thuý Kiều lần này mang một ý nghĩa giá trị nghệ thuật đặc biệt. Hình tượng Từ Hải không chỉ phản ánh một quan niệm mới mẻ, tự do về quan hệ luyến ái nam nữ.

Một đời được mấy anh hùng

Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi!

Chính là lời nói giản dị, chân thành, trân trọng Thuý Kiều của Từ Hải đã là lời tỏ tình tế nhị kín đáo mà phá vỡ khoảng cảnh vốn rất dề xuất hiện giữa nhân vật anh hùng với con người bình thường như Kiều. Có thể nói rằng Nguyễn Du thật có biệt tài xây dựng, khắc họa tính cách từng nhàn vật một cách đậm nét rõ ràng. Đặc biệt là nhân vật Từ Hải. Hơn bất cứ những hình tượng nào khác trong tác phẩm, Từ Hải phản ánh khát vọng tự do một khuynh hướng tự do không chỉ vượt khỏi lễ giáo, đạo đức chính thống mà còn là một người nổi loạn đối lập với trật tự chính trị phong kiến. Hình tượng Từ Hải – con người đã san phẳng bất bình, bênh vực người bị áp bức bằng nghĩa khí và tài năng cá nhân – tạo nên nội dung phong phú sâu sắc của Truyện Kiều.

Từ Hải dường như đã bẻ gãy xiềng xích mà xã hội phong kiến trói buộc con người, chàng phủ định chính quyền nhà vua, và đối với chàng tự do cao hơn hết thảy:

Chọc trời khuấy nước mặc dầu

Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!

Với khí thế ngang tàng của sự tự do, không phải là cảnh:

Áo xiêm ràng buộc lấy nhau

Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?

Mà lại cái tư thế hiên ngang giữa đất trời, thoả chí anh hùng:

Giang hồ quen thói vẫy vùng

Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo.

Hình ảnh cây cung và thanh kiếm đã tạo nên một nét mới trong tính cách của Từ Hải. Cũng như Kim Trọng, Từ Hải có một tâm hồn cao thượng và đượm chất thơ. Nhưng khác với các nhân vật trong tác phẩm, Từ Hải còn làm độc giả say mê bởi cái cốt cách của một kẻ ngang tàng, hào phóng.

Nguyễn Du xây dựng Từ Hải là nhân vật lí tưởng có cốt cách phi thường nhưng đứng trước Kiều “Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng". Tuy nhiên chàng luôn đứng trên lập trường và lợi ích của cộng đồng, tình cảm và lí tưởng của chàng luôn thống nhất chứ không đồng nhất. Vì vậy mà:

Nửa năm hương lửa đương nồng

Trượng phu thoát đã động lòng bốn phương

Trông vời trời bể mênh mang

Thanh gươm yến ngựa lên dường thẳng rong.

Sống trong hạnh phúc yêu thương, khi hơi ấm tình cảm vợ chồng ở độ mặn nồng, đằm thắm, Từ Hải vẫn không quên sự nghiệp lớn, chí làm trai mà theo như Nguyễn Công Trứ:

Chí làm trai nam bắc tây đông

Cho phí sức vẫy vùng trong bốn bể.

Điểm này ở Từ Hải đã cho thấy sự phù hợp trong tính cách của chàng đó là đội trời đạp đất ở đời. Tư thế ra đi của Từ Hải dứt khoát khồng có chút gì lưu luyến – bịn rịn như Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều, không có lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai. Mà ở đoạn trích Chí khí anh hùng (Truyện Kiều – Nguyễn Du), người Trượng phu mang trong mình tầm vóc lớn lao của thời đại giao cho, đối lập với một không gian bao la, trông vời trời bể mênh mông là tầm vóc của người anh hùng: Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong. Chỉ mới bốn câu thơ thôi Nguyễn Du đã khắc hoạ một nhân vật, người anh hùng bằng xương bằng thịt. Bởi miêu tả là người anh hùng cho nên ngôn ngữ của Nguyễn Du là sự kính phục, trân trọng. Cách miêu tả cũng khác, không gian, thời gian được mở rộng để phù hợp với khí phách của nhân vật chăng?

Người anh hùng ra đi không muốn vướng bận nữ nhi, không chút mềm yếu trước lời nói của thê tử:

Nàng rằng: phận gái chữ tòng

Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.

Thuý Kiều là người sâu sắc đến mấy cũng không thoát khỏi chuyện phu – thê quyến luyến. Nàng chỉ muốn theo Từ Hải đi để làm trọn bổn phận làm vợ của mình, mà không nghĩ đến việc lớn của chàng. Vì thế Từ Hải đã trách khéo nàng tâm phúc tương tri tức là hai người đã hiểu rõ lòng dạ của nhau một cách sâu sắc như thế, cần gì phải quan tâm đến chuyện nghĩa theo chồng như đạo Nho bắt làm. Sau đó chàng động viên Thuý Kiều ở nhà yên tâm đợi tin vui:

Bao giờ mười vạn tinh binh

Tiếng chuông dậy đất bóng tỉnh rợp đường.

Làm cho rõ mặt phi thường

Bây giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.

Còn bây giờ giữa trời đất bao la bốn bể không nhà, nàng mà đi theo chi làm bận tâm thêm, huống chi chưa biết rõ là đi đâu. Vì vậy nàng hãy dằn lòng chờ đợi chỉ một hai năm vội gì. Thế rồi chàng:

Quyết lời dứt áo ra đi

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.

Hình ảnh con chim bằng được lấy điển tích từ truyện ngụ ngôn kể rằng chim bằng là một giống chim rất lớn, đập cách làm động nước trong ba ngàn dặm, thường tượng trưng cho những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, khao khát làm nên sự nghiệp lớn. Nguyễn Du đã ví Từ Hải như là con chim bằng đã đến lúc tung cánh bay lên cùng gió mây.

Cuộc sống của một con người luôn khao khát không trung, tự dothỏa chí vẫy vùng, không bao giờ chịu sống trong cảnh tù túng, gò bó trong không gian nhỏ bé thường ngày của người bình thường. Khi miêu tả người anh hùng Từ Hải, Nguyễn Du đi vào miêu tả hành động và cử chỉ ngôn ngữ mang ý nghĩa mạnh mẽ, dứt khoát như: thoắt đã, thẳng giong, sao chưa thoát khỏi, dậy đất, phi thường, vội gì, quyết lời dứtáo ra đi,… Ngoài ra thêm các từ chữ Hán để bộc lộ tư tưởng tình cảm của tác giả, rồi dùng điển cố, điển tích…và cả xây dựng thời gian, không gian mở: nửa năm, bốn phương, trời bể mênh mang, …

Tóm lại, chỉ một đoạn thơ ngắn, hình tượng nhân vật Từ Hải dường như xuất hiện từ một giấc mơ, từ một giấc mơ hùng vĩ về chính phía mà hàng triệu người khốn khổ áp bức hằng ôm ấp. Vì vậy mà khi xây dựng, Nguyễn Du đã có những sáng tạo các phương thức nghệ thuật riêng, để biểu đạt khát vọng của mình và của thời đại Nguyễn Du sống – khát vọng về sự tự do, công bằng lẽ phải. Từ một cuộc chia li mà nói lên được toàn bộ chí khí anh hùng của Từ Hải.

Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) – Bài số 2

Vương Thúy Kiều là một người con gái “tài sắc vẹn toàn”, một bậc giai nhân vẹn toàn khó có thể tìm thấy trong dân gian. Tuy nhiên, càng tài sắc bao nhiêu thì cuộc đời của nàng càng trắc trở, bất hạnh bấy nhiêu. Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy tiền cứu cha, cứu gia đình, cuộc đời của Thúy Kiều đã bước sang một trang khác, nàng không còn là một tiểu thư đài các, sống cuộc sống “Êm đềm chướng rủ màn che” nữa, nàng đã trở thành một người con gái phong trần, bán niềm vui cho thiên hạ. Cuộc đời nàng những tưởng mãi chìm trong đau khổ, bị thương nhưng Từ Hải xuất hiện, người đàn ông “đầu đội trời, chân đạp đất” ấy đã cứu vớt cuộc đời chìm nổi của nàng Kiều, cho Kiều một danh phận, một cuộc sống như bao nhiêu người phụ nữ bình thường khác. Trong trích đoạn “Chí khí anh hùng” nhà thơ Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét hình ảnh của người anh hùng Từ Hải.

Đến với Thúy Kiều nhưng Từ Hải chưa phút giây nào lãng quên lí tưởng, sự nghiệp lớn của mình. Vì vậy, sống chung với Thúy Kiều sáu tháng, dù vô cùng hạnh phúc, vui vẻ nhưng Từ Hải cũng đã nói lời từ biệt nàng Kiều để lên đường thực hiện nghiệp lớn:

“Nửa năm hương lửa đương nồng

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương

Trông vời trời bể mênh mang

Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong”

“Nửa năm” là khoảng thời gian Từ Hải hạnh phúc bên nàng Kiều. “Hương lửa đương nồng” chỉ khoảng thời gian êm đềm, hạnh phúc ấy, ngọn lửa của tình yêu vẫn nóng bỏng, rạo rực trong trái tim. Nhưng, người trượng phu ấy đã “động lòng bốn phương”, khát khao, ước mơ thực hiện lí tưởng lại trỗi dậy mạnh mẽ trong chính người trượng phu ấy, “trời bể mênh mang” tức sự nghiệp mà chàng đang ấp ủ vẫn là một cái đích lớn cần thực hiện, đang “vẫy chào” với chàng. “Thanh gươm”, “yên ngựa” là những hành trang theo Từ Hải lên đường, sát cánh bên chàng khi chiến đấu thực hiện giấc mộng lớn. Vì vậy, câu thơ “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” thể hiện được phong thái của một bậc anh hùng “đầu đội trời chân đạp đất”, khí chất khẳng khái cần phải có của một người đứng đầu.

“Quyết lời dứt áo ra đi

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi

Sinh vi nam tử yếu hy kì

Khẳng hứa càn khôn tự chuyển đi”

Phong thái của người anh hùng Từ Hải thể hiện ngay trong hành động dứt khoát, khẳng khái “dứt áo ra đi”. Nghiệp lớn của người anh hùng đã đến kì “dặm khơi”, nên Từ Hải vô cùng dứt khoát ra đi, bởi sự nghiệp này phải thực hiện, thân là người nam nhi đầu đội trời, chân đạp đất càng không thể không thực hiện: “Sinh vi nam tử yếu hy kì”. Đồng thời, câu thơ cũng thể hiện được sự tự tin vào sức mạnh của mình: “Khẳng hứa càn khôn tự chuyển đi”. Từ Hải tự tin vào sức mạnh và tài năng của mình, lời khẳng định đầy tự tin rằng lần lên đường này nhất quyết sẽ thắng lợi, sẽ khiến cho “càn khôn tự chuyển đi”. Lí tưởng này của chàng thật lớn lao, vĩ đại, lời khẳng định của chàng mạnh mẽ đến mức người đọc tin tưởng rằng nhất định nó sẽ trở thành sự thực.

Trước quyết định ra đi của Từ Hải, Thúy Kiều đã bày tỏ nguyện vọng muốn được đi theo, vừa là tiện bề chăm sóc, làm tròn trách nhiệm của một người thê tử với phu quân, vừa là không muốn chia li, cắt biệt với Từ Hải:

“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng

Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi

Từ rằng: Tâm phúc tòng tri

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”

Thúy Kiều nói với Từ Hải bằng giọng điệu hết sức tha thiết, thể hiện mong muốn chân thành với Từ Hải, đó là theo Từ Hải đến nơi chân trời góc bể “Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”, với nàng Kiều, phận làm vợ phải đề cao chữ “tòng”, tức với một người con gái đã xuất giá là phải theo chồng “xuất giá tòng phu”. Có lẽ, Từ Hải là người chồng đúng nghĩa nhất của Thúy Kiều, cũng là người thật lòng yêu thương, bảo vệ nàng như một người trượng phu thực thụ. Tuy nhiên, trước mong muốn của Thúy Kiều, Từ Hải đã không thể đồng ý, chàng cho rằng Thúy Kiều chưa thể thoát ra khỏi cái yếu đuối, ủy mị của “nữ nhi thường tình”, rằng “tâm phúc tòng tri”, vì vậy không nhất thiết phải theo chàng ra tận nơi chiến trường đầy hiểm nguy.

Tấm lòng của Thúy Kiều thì Từ Hải nhận, nhưng đành phải nói lời từ chối với mong muốn đi theo của nàng. Có thể nói tình yêu của Từ Hải dành cho Thúy Kiều là đúng nghĩa, nhưng chàng cũng biết nơi chiến trường hiểm nguy, gian khổ như thế nào, đối với thân gái như Kiều khó có thể chịu được. Vì vậy, càng yêu Kiều bao nhiêu thì Từ Hải càng quyết tâm bấy nhiêu, quyết tâm ra đi, quyết tâm dành chiến thắng để mang lại cho Kiều cuộc sống tốt đẹp nhất. Ngay sau đó, Từ Hải cũng an ủi Thúy Kiều bằng những lời lẽ đầy chân thành, không kém phần mạnh mẽ:

“Bao giờ mười vạn tinh binh

Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường

Làm cho rõ mặt phi thường

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

Lời thơ cũng là lời hứa chắc chắn của Từ hải đối với Thúy Kiều, khi toàn quân đã giành chiến thắng “mười vạn tinh binh”, “tiếng chiêng dậy đất”, “bóng binh rợp đường”. Viễn cảnh chiến thắng huy hoàng được Từ Hải vẽ ra đầy tự tin, chắc chắn. Trong không khí “phi thường” ấy là lúc Từ Hải sẽ cho Thúy Kiều một danh phận chính thức “rước nàng nghi gia”. Tấm lòng của người trượng phu ấy dành cho người phụ nữ của mình thật khiến độc giả cảm động.

“Bằng nay bốn bể không nhà

Theo càng thêm bận biết là đi đâu”

Trở về thực tại, khi hoàng quang chiến thắng còn ở trong tương lai, hiện thực trôi nổi, bốn bể là nhà, đối với bậc trượng phu như Từ hải có thể chịu được nhưng đối với một cô gái yếu đuối như Kiều, liệu có chịu nổi không? Mang theo Thúy Kiều, Từ Hải sẽ thêm gánh nặng “theo càng thêm bận” bởi việc quân, việc nhà. Tuy nhiên, những lời nói của chàng dứt khoát như vậy nhưng thực chất là không muốn Thúy Kiều phải chịu khổ cùng mình, bởi cuộc sống sẽ vô cùng gian khổ, nguy hiểm lúc nào cũng cận kề mà không phải lúc nào chàng cũng có thể ở bên bảo vệ. Người quân tử mang nghiệp lớn bên mình không thể vướng bận thêm việc vợ con, bởi như vậy thì không thể toàn tâm, toàn ý chăm lo cho cái nghiệp lớn ấy được nữa.

Trích đoạn “Chí khí anh hùng” là trích đoạn đại thi hào Nguyễn Du dựng lên hình ảnh thật đẹp về người anh hùng Từ Hải, chàng không chỉ là một bậc trượng phu “đầu đội trời chân đạp đất”, có khát vọng, lí tưởn

0